Đây thật sự là một bài văn xuất sắc, đầy sức thuyết phục. Phân tích văn cần hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn đó trước tiên.
Thể loại văn của Hịch tướng sĩ là gì?
Hịch là lời kêu gọi của một vị lãnh đạo quân sự trước một trận chiến lớn. Kêu gọi, thúc đẩy, kích động phải được thực hiện một cách hùng biện, hùng hồn. Vì vậy, phải sử dụng lý lẽ đanh thép để thuyết phục đối tượng. Đồng thời, phải tác động vào tình cảm, gợi cảm xúc, khiến người nghe không thể im lặng, mà chỉ muốn hành động ngay lập tức.
Bài hịch của vua Hưng Đạo đã thực sự đạt được hiệu quả cao ở cả hai mặt:
Tuy nhiên, quyết định quan trọng nhất tạo ra hiệu quả đó trong bài văn là sự chân chính của lời kêu gọi và uy tín của người viết hịch.
Đây là lời kêu gọi để đánh đuổi quân giặc, giữ vững quyền lợi thiêng liêng của đất nước và mỗi công dân. Đây là sự kết hợp giữa lợi ích chung và cá nhân, giữa lợi ích tinh thần và lợi ích vật chất thực tế.
Đây cũng là lời kêu gọi của một vị tướng quân uy tín, một lời nói xuất phát từ tâm huyết của một người đã hy sinh tất cả vì dân tộc, là tiếng nói của đất nước qua một tâm hồn cao cả không thể bị nghi ngờ.
1. Trước hết, hãy xem xét về lý lẽ, sự logic trong bài hịch.
a) Đối tượng của bài hịch là các chiến sĩ
Luận điểm được đưa ra là: Làm chiến sĩ phải dâng trọn lòng mình cho vua, cho nước, cho lãnh đạo, đó là một chân lý. Tác giả khẳng định tính chân lý của luận điểm này thông qua nhiều bằng chứng lịch sử. Số lượng bằng chứng càng nhiều, mức độ thuyết phục càng cao. Những bằng chứng được sắp xếp theo thời gian, từ xa đến gần, từ quá khứ đến hiện tại, để thấy rõ sự phổ biến của chúng qua thời gian, và tính hiện thực của chúng ngày nay, không chỉ là lý thuyết cũ kỹ.
“Các anh con hậu duệ của các vị anh hùng, nếu không hiểu biết văn hiến, không lắng nghe những câu chuyện, nửa tin nửa ngờ thì sao? Bỏ qua những câu chuyện cũ, chúng ta chỉ nói về thời đại Tống, Nguyên gần đây
b) Từ luận điểm chung về phẩm cách của người làm chiến sĩ, tác giả truyền đạt tư tưởng của mình
Ở đây, tính chính trực của bài hịch được khẳng định một cách đầy cảm xúc khi sứ thần nhà Nguyễn lạm dụng quyền lực, làm tổn thương vương tử, chiếm đoạt của cải, lòng tham lam cực kỳ, rõ ràng sẽ gây ra nguy cơ xâm lược. Trước tình hình đó, lãnh đạo đau đớn, xấu hổ, đêm ngày lo lắng về việc đánh đuổi kẻ thù, sẵn lòng hy sinh không tiếc để bảo vệ đất nước
Tuy nhiên, điều đó không chỉ liên quan đến lợi ích của triều đình, của vua và các quan lại, phải không? Không, điều này không đúng. Bài hịch khẳng định sự đồng lòng chặt chẽ giữa lợi ích của triều đình, của chủ nhân với lợi ích của các tướng sĩ: “Các ngươi đã ở bên ta giữ binh quyền từ lâu, không thiếu gì, không có ăn thì ta cho ăn, quan thấp thì ta thăng chức, lương ít thì ta bổ túc...” Cần lưu ý từ “từ lâu”. Điều này ngụ ý mối quan hệ tốt đẹp giữa vua và tướng sĩ của tôi đã tồn tại từ lâu và rất đáng tin cậy, không kém phần quan trọng so với mối quan hệ chủ tớ lý tưởng trong những truyện anh hùng nghĩa sĩ ở Trung Quốc (So với cách xử sự của Vương Công Kiên với các tướng sĩ, hoặc cốt Đãi Ngột Lang đối xử với những người phụ tá trung thành).
c) Đến đây, luận điểm: làm tướng phải tận trách với chủ đã được khẳng định đầy đủ không chỉ như một chân lý chung, mà còn là lẽ phải của ngày nay, của vua tôi, chủ tớ nhà Trần trước nguy cơ bị xâm lược ngoại quốc.
Và vấn đề ở đây là phải thực hiện lẽ phải đó. Bài hịch chuyển sang một ngôn từ lý trí cảm động khi nêu rõ hậu quả khủng khiếp và thảm hại nếu không đối phó với kẻ thù ngoại bang, đồng thời cũng châm chọc, khiến tướng sĩ cảm thấy xấu hổ, tội lỗi, về việc “kích tướng”, tức là cố tình kích động, làm tổn thương lòng kiêu hãnh, lòng tự trọng, lòng tôn kính đối với các tướng sĩ nhà Trần, nổi tiếng với 'hào khí Đông Á, với tinh thần kiên cường, với quyết tâm chiến đấu của hội nghị Diên Hồng:
'Này các ngươi đứng nhìn chủ nhục mà không biết lo, dựa vào lý và tình - đặc biệt là dựa vào tình - bởi vì rút ra từ lý là nghĩa vụ đánh thù giặc, cứu nước, cứu nhà, cứu mình, không có gì phải tranh cãi nhiều.
3. Bài hịch không chỉ tốt bởi lý lẽ, lập luận. Nói chung, như đã đề cập ở trên, nhiệm vụ chính của nó là tác động qua cảm xúc. Đây là thời kỳ văn học có phần phân biệt rõ ràng giữa văn thơ triết học, giữa văn nghệ thuật, văn cảm xúc, văn hình tượng và văn luận án, chính trị, triết học.
Bài hịch được phân tích như một loại văn bản nghị luận (dựa trên luận điểm, luận cứ, thuyết phục bằng sức mạnh logic) cùng một lúc là văn nghệ thuật, văn hình tượng thuyết phục bằng tình cảm, cảm xúc.
Do đó, trong bài văn, trên cơ sở của những lập luận, xuất hiện hình ảnh của Trần Hưng Đạo - một con người vĩ đại.
Anh là một anh hùng có trái tim lớn. Trái tim chứa đựng tình yêu vĩ đại với đất nước, với nhân dân. Đó là trái tim đau đớn, oan trách, nhục nhã. Một trái tim đầy sức sống:
“Thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vòi gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ mong được trả thù, giết hại quân thù. Dù thân xác này phải phơi ngoài đất, xác này gói trong da ngựa, ta cũng sẵn lòng”.
- Anh là một vị tướng rất nhân từ, kết nối với binh lính, đồng đội, bằng một tình cảm sâu sắc, như tình cha con trong một gia đình “Không có áo, ta sẽ cho, không có cơm, ta sẽ cung cấp (...) khi chiến trường nổ ra, ta cùng nhau sống chết (...) nhìn thấy đất nước bị nhục nhã mà không biết xấu hổ. Làm tướng, phải bảo vệ đất nước khỏi kẻ thù mà không tức giận; nghe thấy lời khen ngợi để mời kẻ giả mạo mà không căm phẫn (...) nếu có quân Mông Cổ đến tấn công, còn cả chiến trận chẳng thể hạ được áo giáp của kẻ thù, còn mưu mẹo chiến lược của quân ta. Khi đó, “cả gia đình ta sẽ tan rã, vợ con các ngươi cũng sẽ khổ; thậm chí, kỷ vật của tổ tiên các ngươi cũng sẽ bị phá hủy: không chỉ thân xác này chịu nhục, mà cả sau này một trăm năm, tiếng xấu còn tồn tại, tên ác vẫn tồn tại, người thân của các ngươi không thể tránh khỏi sự xấu hổ làm tướng thất bại. Khi đó, dù các ngươi muốn vui vẻ thì có thể không?”
Khích tướng là yếu tố then chốt để thúc đẩy hành động. Tuy nhiên, đam mê và nhiệt huyết không đủ. Phải có kế hoạch cẩn thận, phải biết sử dụng binh lính và phải biết huấn luyện quân lính một cách hiệu quả. Do đó, bài diễn thuyết kết thúc bằng việc chỉ rõ công việc cụ thể cần thực hiện: học và huấn luyện quân lính theo Bình thư yếu lược. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học cuốn sách này, tác giả coi đó như là tiêu chuẩn để phân biệt ai là kẻ địch một cách rõ ràng.
Nếu bạn tuân theo hướng dẫn của tôi để học cuốn sách này, thì chỉ khi đó bạn mới thực sự là người theo đạo và không bỏ cuốn sách này đi ngược lại lời dạy của tôi, điều này có nghĩa là bạn đang phản bội.
Tổng quan, lập luận của bài diễn thuyết diễn ra từ xa tới gần, từ tổng quát đến cụ thể, từ khuyến khích nhận thức đến kích động cảm xúc và kết thúc bằng hành động cụ thể và thiết thực. Lập luận cũng sử dụng lý lẽ thuyết phục, khẳng định mạnh mẽ, không cho phép bất kỳ ai nghi ngờ hoặc phản đối. Sự do dự chỉ làm ta trở thành kẻ địch, là hành động phản bội và xấu hổ, không xứng đáng sống trên đời: Kẻ thù của chúng ta không bao giờ là người đồng minh. Nếu các bạn không muốn làm sạch danh dự, không loại bỏ nguy hiểm, không dạy dỗ binh lính...
Đó là một người lãnh đạo quyết đoán, kiên quyết và tin tưởng vào bản thân, tin tưởng vào binh sĩ của mình. Điều này được thể hiện qua lời văn cứng nhắc, với những phát biểu mạnh mẽ, dứt khoát, không để ai có thể nghi ngờ, không để ai có thể phản đối hoặc do dự. Sự do dự chỉ dẫn đến việc ủng hộ kẻ thù, là sự phản bội, là sự xấu hổ, không xứng đáng tồn tại trên thế giới: Kẻ thù là người không đồng minh. Nếu các bạn không dám dứt khoát, không loại trừ mối đe dọa, không dạy dỗ binh lính...
Như việc quay mũi giáo nhưng lại chịu khuất phục, giơ tay trắng tay nhưng lại khuất phục kẻ thù... mãi mãi là điều xấu hổ, liệu còn ai dám đứng trên thế giới này nữa không?
(Trích từ những bài văn xuất sắc và phức tạp trong chương trình trung học cơ sở)