Trong bóng sen đẹp
Bông trắng lá xanh và nhị vàng xen kẽ
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà không ngửi thấy mùi tanh
Khi nhắc tới sen, bạn tưởng tượng điều gì? Một loài hoa mọc từ vùng đầm lầy, nhưng vẫn kiên trì mạnh mẽ nổi bật, vượt qua những gì bẩn thỉu, vẫn “ rửa sạch bùn mà nổi sáng”, tỏa sáng và đẹp đẽ hơn bao giờ hết? Đúng là sen thật đẹp, nhưng không phải tự nhiên mà sen đẹp như vậy, để trở nên mạnh mẽ như vậy, búp sen đã phải trải qua quá trình lớn lên và phát triển, không thể phủ nhận rằng chính sự rèn luyện từ búp sen đã tạo ra vẻ đẹp không thể nhầm lẫn của sen. Nếu sen là những vị lãnh tụ tài năng thì búp sen chính là hạt giống tạo ra những vị lãnh tụ đó và “Những vị lãnh tụ không được sinh ra sẵn có. Truyền thống của gia đình, quê hương là nguồn cội khởi đầu tạo ra bản sắc ban đầu của mỗi con người và trở thành nền móng cho cuộc sống…”
Tương tự như một bông sen, cao quý và trong sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh – người cha già được mọi người yêu mến của dân tộc, người lãnh đạo vĩ đại luôn đặt quốc gia lên hàng đầu, vì tình yêu quê hương mà sống, vì sự an ấm của hàng triệu người mà quên đi bản thân mình. Người không mong muốn cuộc sống giàu có, người thông minh, giản dị, mạnh mẽ, kiên cường,…. Người luôn tỏa sáng với nhân cách cao quý, tư tưởng của Người, tình cảm rộng lớn của Người luôn sống mãi trong lòng người Việt Nam. Và cũng giống như một đóa sen, vẻ đẹp ấy không phải tự nhiên mà có, nó được tạo nên từ búp, từ những ngày Bác còn trẻ, rồi từng ngày, từng ngày trưởng thành, nó trở nên hoàn thiện và tạo ra một con người cứu sống cả một dân tộc.
Giới thiệu về tên Bác qua các giai đoạn
1. Tên khi sinh (tên sử dụng khi còn nhỏ): Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Sinh Cung)
2. Tên tự (tên sử dụng trong thời niên thiếu): Nguyễn Tất Thành
3. Tên mà Bác sử dụng trước khi bắt đầu hành trình cứu nước: Anh Ba
Thời thơ ấu của Người
Chuyện này có lẽ các bạn không tin, nhưng thực ra, khi còn bé, Bác cũng là một đứa trẻ nghịch ngợm, luôn làm những trò quậy phá trong lớp. Trèo mái nhà làm tổ chim, trèo cây hái quả, trêu chọc chó nhà hàng xóm, thậm chí còn rủ cả lớp đi câu cá,... Tất cả những việc đó, Bác đều đã trải qua, và có lẽ chính những lần 'nghịch dại' ấy đã giúp Bác trưởng thành trong một tuổi thơ đầy khó khăn. Suốt những năm tháng thơ ấu, thầy, cha, anh chị em, bạn bè, hàng xóm, bà ngoại, thầy sư,... họ đều là những người ảnh hưởng tích cực đến nhân cách của Bác.
Trong số những người kể trên, có lẽ cha là người ảnh hưởng nhiều nhất đến Bác. Ông là một quan phó bảng, đỗ kì thi Hương. Dù làm quan nhưng cả đời ông luôn hướng tới một cuộc sống giản dị, tự do, tự tại, thực hiện hai chữ thanh liêm. Tuổi thơ của ông cũng không dễ dàng, cha mẹ ông đều mất sớm, nhưng ông vẫn cố gắng học hành, không để làm quan, mà để cứu giúp con người. Ông luôn sống liêm minh, chân thành, không tự cao, và luôn chia sẻ với nhân dân.
Con đã học bài, nhưng các bạn vẫn chưa học, và khi con rủ các bạn đi câu cá, đó là một việc không đúng. Đó chính là con chỉ suy nghĩ cho bản thân, không quan tâm đến người khác, đó là hành động ích kỷ. Có hiểu rõ chưa?
Côn ơi! Nếu ở nhà, cha sẽ phải phạt con, và con không được nói với cha một cách không lễ phép như vậy. Con hãy xin lỗi cha.
Suy nghĩ của con cũng giống như cha, về việc cứu nước cứu dân. Người có thể thay đổi được tình hình chính là những người trẻ tuổi, không phải cha. Đó là điều tâm đắc trong sự không bình sự.
Không chỉ cha, mẹ cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến Bác. Bà luôn ủng hộ, thương yêu và hy sinh vì gia đình. Bà không ngần ngại làm việc vất vả để nuôi gia đình, luôn dạy bảo con cái về tầm quan trọng của tri thức. Nếu cha dạy kiến thức, thì mẹ bồi dưỡng trái tim. Mặc dù còn trẻ nhưng những điều bà đã truyền đạt cho Bác không chỉ là tình mẫu tử mà còn là giá trị con người, là bài học làm người quý báu.
Bên cạnh cha mẹ, quanh Côn có rất nhiều những người đặc biệt. Họ là anh chị, ông bà, bạn bè, hàng xóm,... Những người này không có vẻ ngoài hoành tráng nhưng luôn yêu thương, chia sẻ với nhau. Chính họ đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời của Côn. Từ họ, ta có thể thấy được ý nghĩa của tình bạn, tình thân, và sự đoàn kết trong cộng đồng. Điều này khiến ta trở nên yêu thương con người hơn, tin tưởng vào tình người hơn.
Thật là đáng thương cho bà cử! Cha và con trai của bà vẫn chưa trở về.
Quả thật là đáng thương cho em bé Côn! Mẹ chết và không có ai ở bên cạnh để chia sẻ, để quan tâm!
Trong những ngày cuối năm, khi tết đang đến gần, mẹ mất, cha vắng nhà, và em bé Côn phải ở trong một môi trường xa lạ, liệu cuộc sống của họ sẽ ra sao?
Vậy à... không có ai là ruột thịt của ông bà cử ở đây à?
Đúng vậy, không có ai cả.
Vậy thì, khi chị em xa cần, láng giềng gần sẽ đứng bên cạnh, mỗi người sẽ đóng góp một phần để đưa bà cử về nơi yên nghỉ cuối cùng.
Trong tác phẩm, ta cũng thấy sự hiện diện của những nhà cách mạng, là bạn thân của cha Côn. Chính nhờ họ, từ khi còn nhỏ, Côn đã được tiếp xúc với những ý tưởng cứu nước, từ đó suy nghĩ và trưởng thành hơn.
Dù yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến con người và nhân cách của Bác, nhưng chính sự nghị lực và kiên cường trong lòng Bác là điều quan trọng nhất. Côn từ nhỏ đã biết cần cù, biết lắng nghe, biết yêu thương và có quan điểm vững chắc. Sự nghị lực của Bác hiện rõ trong những thời kỳ khó khăn, từ khi mẹ mất, phải tự lo cho em, theo cha lên thành phố từ nhỏ... Bác luôn học hỏi với trái tim đầy yêu thương, trở thành người đáng kính ngưỡng.
Khi chỉ mới mười tuổi, Côn đã phải lo chế biến thức ăn, chăm sóc cho mẹ ốm. Hàng ngày, Côn còn phải mang em sang nhà hàng xóm để xin bữa sữa cho em bé.
Cảm giác sợ hãi tan biến khi cô đơn bao trùm Côn vào đêm giao thừa. Côn phải làm quen với em bằng kẹo, bánh từ bạn bè. Mặc dù em vẫn chưa biết nói, nhưng Côn vẫn nói chuyện với em như thể em hiểu mọi điều...
Giai đoạn thanh thiếu niên.
Thời niên thiếu của Bác là thời gian sống ở Huế, học tập và trải nghiệm, sau đó trở thành giáo viên ở Phan Thiết và sau đó chuyển đến Sài Gòn.Khi chuẩn bị theo cha lên Huế lần thứ hai, cùng với cha và anh, Côn bận rộn chuẩn bị mọi thứ để chuẩn bị cho việc xa quê. Việc rời bỏ quê hương lần này diễn ra dưới sự chia tay của mọi người trong làng.
Cha và con bước đi từng bước chậm rãi, thỉnh thoảng nhìn lại phía sau. Những người thân và hàng xóm đứng dưới bóng cây tre, nhìn theo họ ra xa.
Họ phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của bạn bè, và trên đường đi, với tâm trạng của những người trải qua nhiều khó khăn, cậu bé Côn đã nhận ra nhiều điều mới mẻ.
Trong tai anh, vang lên những câu hát quen thuộc từ lâu:
Tại sao miền Nam lại có sự hiện diện của người Tây?
...Tất Thành cảm thấy rằng ở đất nước này, có sự chuyển biến đang diễn ra trong tâm trí mỗi người,...
Ở nhà bạn của cha, Tất Thành đã thể hiện bản thân là một người được giáo dục có văn hóa và kinh nghiệm sống đáng ngưỡng mộ.
Trong bữa cơm đón khách đầu tiên, sau khi ăn xong, Thành tự lấy tăm để đặt lên miệng chén trà cho mỗi người. Sau đó, Thành dọn dẹp bát đĩa và rửa chén...
Sau khi đến ở từ ngày trước, ngày sau đó Thành đã đi chợ để mua gạo và thức ăn. Thành biết rõ về các loại gạo ở chợ Đông Ba như gạo lứt, gạo chăm, gạo tẻ,...
Với tư tưởng tiến bộ rằng muốn hiểu rõ về người Tây, cần phải hiểu về ngôn ngữ, văn hóa của họ, và cần phải học chữ của họ, Tất Thành đã đăng kí học tại trường Đông Ba. Ở đó, Thành gặp lại những người bạn cũ đã giúp đỡ mình trước đây. Tham gia vào một cuộc biểu tình, Thành đã cứu một người bị thương nặng. Sau này, người đó trở thành anh em với Thành. Sau sự kiện đó, Thành phải trốn tránh cảnh sát, dù đã có thể trở lại trường nhưng anh đã quyết định ra đi theo lời gọi trong lòng để viết nên một trang sử mới.
Dấu chân của Nguyễn Tất Thành được in sâu xuống cực Nam Trung Bộ. Theo lời khuyên của cha, anh đã đến dạy tại trường Dục Thanh. Ở đây, anh đã tận tình dạy dỗ học trò, không ngần ngại giúp đỡ những em gặp khó khăn. Mặc dù chỉ ở lại một thời gian ngắn nhưng ấn tượng và bài học mà anh để lại trong lòng học sinh là những điều đáng trân trọng. Các em còn nhớ người mà Bác đã cứu trong biểu tình chứ? Đó chính là anh Tư Lê, và đây là lúc Thành gặp lại anh ấy. Nhờ gặp Tư Lê, Nguyễn Tất Thành lại một lần nữa rời đi, đi về phía Nam, để tìm con đường cứu nước, thực hiện ước mơ của mình và của cha anh.
Cha để lại con một lối đi trống trải, để con tự tìm hướng đi của mình. Cha không dẫn đường cho con, chỉ để con mò mẫm tìm lối ra. Đời không dành cho con con đường sáng láng, chỉ có những nẻo đường u ám. Cha không làm được những điều mà con mong ước: hy sinh vì đất nước, chiến đấu cho công bằng... Nhưng con phải dũng cảm bước đi, khi con đã quyết tâm...
Anh ra đi một cách im lặng, chỉ để lại một lá thư xin lỗi và lời nhắn gửi tới các học trò nhỏ. Sứ mệnh lớn lao của anh là gọi mọi người tiến lên phía trước dưới cái tên 'Tinh thần không ngừng tiến bước!'
Tuổi hai mươi
Theo dấu chân của Tư Lê, anh Ba đến Sài Gòn. Ở đây, anh gặp cụ già Đờn, cô út - con gái của ông và những người bạn ở xóm chợ. Anh không sợ khó khăn, không e dè vất vả, tự nguyện gánh nặng để tìm lối đi tới một cuộc sống mới. Anh tìm kiếm tương lai, nhưng không quên hiện tại, không quên những người đã nhiệt tình giúp đỡ anh. Anh mở lớp dạy học, nơi mà 'Anh Ba chiếu sáng trong trái tim của những người thợ mộng mơ.'
Trong thời gian làm thợ, anh biết đến tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin, anh đăng ký một chân làm bồi tàu. Trước khi ra đi, anh đã hỏi anh bạn của mình - anh Tư Lê về việc đi cùng anh. Và nhớ câu nói nổi tiếng của Bác khi anh Tư Lê hỏi về tiền cho việc đi.
Đây, - anh Ba quả quyết, giơ hai tay ra giữa bóng đêm - tiền đây. Chúng ta sống bằng bàn tay và trí óc của chúng ta.
Trước khi ra đi, anh không quên tìm đến cha, người đã dạy dỗ anh rất nhiều điều. Lúc này, sự chia ly trở nên đau đớn và ngột ngạt vì không ai biết đó có phải là lần gặp nhau cuối cùng?
Anh Ba lau nước mắt, nắm lấy tay cha, và anh nói:
- Cha!
Ông nhấc bàn tay ngăn lại:
- Đừng! Đừng gọi cha vào thời điểm này! Hãy gọi Tổ quốc! Gọi đồng bào! Hãy đi... đi con!
Ngày 5/6/1911, Người ra đi để tìm đường cứu nước, trên con tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin, mở ra một hành trình dài đầy gian khổ nhưng vinh quang. Con tàu vượt sóng, mở ra một tương lai mới cho dân tộc và quê hương.
Búp sen xanh hiện giờ không chỉ là một đứa trẻ trên con đường trưởng thành nữa, mà búp sen xanh còn là nguồn gốc, là tiếng gọi của quê hương, là một thời để nhớ, thúc đẩy con người hướng về phía tương lai. Đó là nguồn cội của một nhà văn lịch sử.
Tác giả: Hama - MyBook