Cuốn sách này là một tiểu thuyết lãng mạn, ghi lại một cuộc phiêu lưu của trái tim, mô tả những khoảnh khắc thay đổi của tâm hồn đầy lãng mạn.
Nếu như tiểu thuyết hiện thực phê phán của các tác giả như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụ, Tô Hoài… đã phát triển mạnh mẽ trong không khí sôi nổi, rộn ràng của thời kỳ Mặt trận Dân Chủ, thì tiểu thuyết lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn xuất hiện trong bầu không khí u ám, buồn bã của thời kỳ suy thoái và khủng hoảng kinh tế.
Sau năm 1930, các xu hướng tiểu thuyết hiện đại đã phát triển mạnh mẽ và phức tạp hơn. Tự Lực Văn Đoàn đã ra đời mang theo không khí văn chương nặng trĩu “chàng” và “nàng” trong các tiểu thuyết lãng mạn của các tác giả như Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Vỹ, Lưu Trọng Lưu…. Tự Lực Văn Đoàn đã nhanh chóng trở thành một phong trào văn học có tuyên ngôn, có báo chí, có nhà xuất bản riêng.
Hiện nay, các tác phẩm của họ nhận được sự quan tâm lớn từ độc giả và có sức hút đặc biệt, đặc biệt là với con số 58.000 tiểu thuyết và thơ. Tiểu thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên, là tiếng súng bắn đầu tiên trên thị trường văn học, đánh dấu sự ra đời và phát triển của những tác giả có tư duy mộng mơ.
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm đầu tiên của Khái Hưng, viết năm 1933, và cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Dù chỉ là một truyện ngắn vỏn vẹn khoảng một trăm trang giấy, nhưng nó lại là tác phẩm nổi tiếng nhất của Khái Hưng, được rất nhiều người say mê, hâm mộ.
Qua một cốt truyện đơn giản, không đào sâu vào những mối quan hệ phức tạp của xã hội, nhưng Hồn bướm mơ tiên vẫn có thể thu hút sự quan tâm của độc giả.
So sánh với mục tiêu của Tự Lực văn đoàn và xu hướng chung của tiểu thuyết của nó, Hồn bướm mơ tiên đứng ở một vị trí độc lập, thậm chí là trái ngược, khi tập trung vào Đạo Phật một cách rõ ràng.
Câu chuyện bắt đầu tại một chùa yên bình. Ngọc, một học sinh trong kỳ nghỉ hè đến thăm người bác tu tại chùa Giáng Long và gặp Lan, một cậu bé giả trai. Tình yêu nảy nở là điều tất yếu, Ngọc sớm trở nên mê đắm Lan.
Cốt truyện tạo ra một sức hút lạ với một câu hỏi không ngừng được đặt ra. Lan là con gái hay con trai? Đâu là thực, đâu là hư? Tại sao một cô gái xinh đẹp như vậy lại trú thân tại cửa Phật? Bí ẩn đó được Khải Hưng giữ kín, gợi lên sự suy thoái của xã hội.
Khác với xu hướng tiểu thuyết hiện thực phê phán, Khái Hưng không đi sâu vào hướng này. Ông tập trung vào việc mô tả tình yêu của nam thanh nữ tú trong môi trường tôn giáo.
Khái Hưng, một người tâm hồn nhạy cảm và nhận thức được bối cảnh của thời đại, do đó Hồn bướm mơ tiên chịu ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố tôn giáo.
Khái Hưng đã sử dụng ngữ cảnh tôn giáo để thể hiện tình yêu. Tác giả diễn đạt sự đối lập giữa tình yêu tự do và niềm hạnh phúc vật chất trong cuộc sống hàng ngày so với sự gò bó và lẽ dạy của tôn giáo. Theo quan điểm của nhà văn, hạnh phúc trong tôn giáo thường là những ước mơ xa xỉ về thiên đường ảo tưởng khiến mỗi cá nhân trở nên phụ thuộc, mê muội trước những rung động chân thành.
Cụ thể ở đây là chị Lan, một người phụ nữ vì lý do đặc biệt mà phải thay đổi giới tính để tu hành. Khi gặp Ngọc, tình cảm giữa họ phát triển tự nhiên như nam nữ bình thường. Tuy nhiên, họ đối mặt với một bức tường tôn giáo chắc chắn, nghiêm ngặt không dễ dàng phá vỡ.
Trong tình yêu, sự hòa hợp tạo ra niềm vui về thể xác và hạnh phúc cho cặp đôi, nhưng tôn giáo coi sự hạn chế, cảm giác khổ hạnh về mặt thân thể và tinh thần là cách để giải thoát khỏi nỗi khổ.
“Chú” Lan nói rất nhiều về đạo Phật, dưới con đường tu hành, nam hay nữ không có nhiều khác biệt, cơm rau vẫn giản dị, không cầu kì. Một người như Lan hoàn toàn thuộc về thế giới của tôn giáo. Nàng không còn là chính mình khi “tâm hồn trần tục chưa được thanh lọc”.
Sự xuất hiện của Ngọc đã đánh thức trong nàng tình yêu, gieo vào tim nàng những âm thanh của tình yêu êm đềm. Một gam màu của tình cảm được hình thành dưới bầu không khí tu hành ổn định. Khái Hưng thực sự can đảm khi chạm vào một góc nhạy cảm như vậy.
Mặc dù là tác phẩm đầu tiên, Hồn bướm mơ tiên cho thấy bút pháp vững chắc của Khái Hưng. Đây là một tác phẩm cân đối và hoàn thiện, bố cục rõ ràng, lối viết lưu loát và sáng sủa. Ông không đi vào miêu tả dài dòng, phức tạp, chỉ sử dụng những bức tranh của đình chùa, bối cảnh tự nhiên như một điểm nhấn.
Một thế giới xa lạ so với sự sôi động của thành phố, ông viết: “Những mái nhà rêu phong xen lẫn giữa những cây rậm rạp, bốn góc, bốn chuông vang vọng trên từng tán lá xanh um. Phía Tây, sau dãy đồi cỏ biếc, bầu trời đỏ ửng lấp lánh qua những khe lá xanh đen. Mái chùa rêu đã phơi phới với màu đất, cây cỏ. Khoảnh khắc một vài bức tường và một số cột gạch vôi chỉ còn mờ nhạt trong cảnh tím thẫm của cánh đồng.”
Về quan điểm triết học, Tự lực văn đoàn nói chung và Khái Hưng nói riêng thuộc về chủ nghĩa tinh thần siêu hình. Hồn bướm mơ tiên như một sự thừa nhận sức mạnh bất lực của con người trước tôn giáo và các quyết định vận mệnh của chủ nghĩa định mệnh.
Điểm sáng khác biệt trong Hồn bướm mơ tiên được người đời khen ngợi chính là khả năng xây dựng tâm lý nhân vật. Giống như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Khái Hưng cũng coi trái tim là trung tâm của nghệ thuật của mình. “Chú” Lan bị hai thế lực mạnh mẽ kéo lê.
Khi đến với tình yêu của Lan, nàng cảm thấy như đang sống đúng với bản thân nhưng sâu trong thâm tâm lại cảm thấy tội lỗi với Phật tổ. Không thể tránh khỏi những lần tự dối lòng, nhưng mỗi lần gạt đi tình yêu thì nó lại trỗi dậy mạnh mẽ, xâm chiếm nàng.
Phật đã dạy rằng: “Thắng lớn nhất là thắng chính mình”, đối mặt với những sóng gió của tình yêu, nàng đã vượt qua những giới hạn vô hình dù chúng có vẻ trần tục và mơ hồ. Hồn bướm mơ tiên mang ý nghĩa cách mạng trong thể loại tiểu thuyết này. Tác giả đã biết định hướng cuộc sống về một thế giới mơ ước của tôn giáo, của tình yêu lãng mạn. Khái Hưng đã biết tạo ra hiệu ứng trong cuốn sách mở đầu cho trào lưu lãng mạn trong tiểu thuyết giai đoạn 1930 – 1945.
Nguồn: https://goo.gl/c96Y1X