Nhà văn nổi tiếng Pháp và giám khảo giải Goncourt, Éric-Emmanuel Schmitt, chia sẻ rằng ông viết văn từ bản năng, không phải vì tiền bạc hay danh vọng.
– Điều gì ở văn chương đã khiến ông rời bỏ sự nghiệp giảng viên triết học để theo đuổi việc viết văn?
-Tôi yêu thích viết từ nhỏ, đã bắt đầu viết truyện ngắn khi 11 tuổi. Tôi từng nghĩ viết không thể kiếm sống được, nên đã chọn một nghề khác để nuôi đam mê.
Sau khi vở kịch đầu tiên của tôi được dàn dựng và biểu diễn ở nhiều quốc gia, tôi có một khoản tiền tác quyền đáng kể. Đến vở kịch thứ hai, tôi đã quyết định nghỉ dạy học hoàn toàn.
Tôi từng nghĩ và khuyên mọi người rằng viết không thể nuôi sống được. Nhưng tôi đã thay đổi suy nghĩ. Viết là món quà trời ban, và thật hạnh phúc khi được sống bằng đam mê của mình.
Cho đến bây giờ, tôi nhận ra rằng viết không phải là nghề, mà là số phận và định mệnh. Ngay cả khi không kiếm được một xu nào, tôi vẫn sẽ viết. Chúng ta không nên trở thành nô lệ của tiền bạc hay thành công.
– Một tác phẩm văn học được đánh giá cao khi có tư tưởng sâu sắc. Vậy triết học đã giúp gì cho ông trong việc viết văn?
– Nếu không học và dạy triết học, có lẽ tôi đã không thể trở thành nhà văn như hiện nay. Mọi tác phẩm của tôi đều bắt nguồn từ triết học. Tôi luôn có hai mục tiêu: kể một câu chuyện hấp dẫn và khiến người đọc suy ngẫm về cuộc sống. Thực tế, viết văn có sức ảnh hưởng lớn hơn triết học rất nhiều.
Những giá trị như lòng vị tha, tình yêu, tiếng cười… trong tiểu thuyết có thể thay đổi người đọc. Truyền đạt những giá trị đó qua triết học khó làm thay đổi nhận thức của mọi người. Nếu viết một tiểu luận triết học về lòng khoan dung, số người đọc sẽ không thể nhiều bằng đọc một cuốn tiểu thuyết.
– Khi sáng tác văn chương, ông thường có cảm xúc như thế nào?
– Khi viết, tôi coi đó như một cuộc hò hẹn. Tôi thổn thức và miên man cảm xúc khi sáng tác. Tôi cố gắng hóa thân vào từng nhân vật để cảm nhận họ. Khi đã hiểu rõ về nhân vật, tôi rời khỏi thế giới tưởng tượng để viết. Khi ấy, tôi không còn trong trạng thái ý thức bình thường mà ở một tầng ý thức khác: sáng tạo.
– Các tác phẩm của ông thường thay đổi cuộc đời người đọc, vậy chúng đã thay đổi ông như thế nào khi sáng tác?
– Tôi viết không phải để diễn đạt những gì tôi nghĩ, mà để khám phá những gì tôi nghĩ. Những gì tôi viết đã thay đổi chính tôi. Tôi là sản phẩm của những tác phẩm mà tôi sáng tác.
Tôi là nhà văn để sống đúng với nghiệp của mình.
Khi viết, tôi muốn khám phá và hiểu rõ thế giới. Sự tồn tại của một tiến sĩ triết học và một nhà văn trong một con người không hề đơn giản. Trong tôi có hai phần: một nhà văn theo bản năng, dòng chảy tự nhiên; và một con người triết học phân tích, tổng hợp... đôi khi bóp nghẹt, làm biến dạng con người nhà văn. Có những lúc phần nhà văn trong tôi trở nên nhỏ bé, lạc lõng, nhưng cuối cùng tôi đã tìm lại được sự cân bằng.
– Vì sao trong tác phẩm của ông lại đề cập nhiều đến tôn giáo?
– Viết về tôn giáo không nên phân biệt hay coi trọng một tôn giáo nào hơn. Qua tác phẩm, tôi muốn người đọc khám phá thế giới tâm linh của nhân vật. Tôi không chủ trương viết về một tôn giáo cụ thể. Nếu chỉ viết về một tôn giáo, nó có thể dẫn đến cực đoan: hoặc tôn sùng và chiêu mộ người theo, hoặc gây ra hận thù về tôn giáo đó.
Quan điểm của tôi là trân trọng và tôn vinh mọi tôn giáo. Tôi nhìn nhận tôn giáo như một di sản của nhân loại cần được bảo vệ. Tôi tiếp cận tôn giáo theo một góc nhìn hoàn toàn nhân văn. Tôi khám phá tôn giáo không qua giáo lý mà qua những con đường nhỏ bé. Tôn giáo trong tác phẩm của tôi là đa dạng và phong phú.
– Theo ông, tôn giáo và triết học đóng vai trò gì trong cuộc sống của con người?
-Chúng ta luôn cần tìm hiểu ý nghĩa của thế giới xung quanh đối với mình. Nhưng điều đó rất khó vì ý nghĩa thường vô hình. Những gì tồn tại không thể giải thích hay đáp ứng được câu hỏi của chúng ta như: ý nghĩa của sự sống, cái chết, tình yêu là gì... Chúng ta chỉ có thể giải thích những điều này qua những khái niệm vô hình.
Tôi cố gắng giải thích những điều này qua văn học, như trong Oscar và bà áo hồng, Con của Noah... Tôn giáo và triết học là những lĩnh vực giúp chúng ta tìm kiếm ý nghĩa vô hình trong thế giới hữu hình. Cả hai đều giúp chúng ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa của thế giới này.
– Ngoài triết học, ông nghĩ nhà văn cần những nền tảng gì khác?
– Không nhất thiết phải học triết học để trở thành nhà văn. Có nhiều nhà văn vĩ đại chưa từng học triết học, họ chỉ là những người biết cảm nhận và lắng nghe đúng cách. Tôi cũng như những nhà văn khác, đều muốn biểu đạt chân thật nhất cảm xúc của mình.
Mỗi người có cách riêng. Có những nhà văn viết rất hay nhưng không truyền tải được nhiều tư tưởng. Tôi không phê phán họ, nhưng bản thân tôi quan niệm rằng viết cần thể hiện được cả tư tưởng và cảm xúc.
– Là giám khảo giải thưởng Goncourt danh giá, xin ông cho biết làm thế nào để xây dựng một giải thưởng có giá trị cho cộng đồng?
– Giải Goncourt nổi tiếng nhờ yếu tố thời gian. Trải qua hơn 100 năm, giải thưởng mới đạt được vị thế như ngày nay. Đây là một giải thưởng cao quý, mang lại danh tiếng cho tác phẩm, nhà văn, nhà xuất bản và dịch giả…
Thứ hai là sự hợp tác hiệu quả giữa những người viết văn, giám khảo và báo chí truyền thông đã tạo nên uy tín cho giải. Chúng tôi chỉ có 10 người nhưng rất được quan tâm. Báo chí có vai trò lớn trong thành công của giải. Lễ trao giải Goncourt vừa rồi có hàng trăm nhà báo tới, thậm chí trèo lên cửa sổ, chờ đón phỏng vấn nhà văn đoạt giải.
– Khi tới Việt Nam, ông có cảm nhận gì?
– Tôi có rất nhiều bạn ở Việt Nam nên rất háo hức muốn đến xem đất nước của các bạn như thế nào.
Tôi cũng có nhiều người bạn gốc Việt sống tại Pháp, như bà giáo viên dạy piano của tôi suốt 15 năm qua. Họ đã rời Việt Nam từ lâu nhưng luôn nghĩ về quê hương. Vì thế, chuyến thăm này còn để khi trở về tôi có thể kể cho những người bạn ấy nghe về Việt Nam ngày nay.
Tôi đến Việt Nam sau khi rời Hong Kong. Có sự khác biệt lớn giữa hai nơi. Hong Kong là một thành phố hiện đại, rộng lớn nhưng thiếu bề dày lịch sử. Còn Hà Nội mang đến cho tôi nhiều cảm xúc bất ngờ, an lành, cảm giác thân quen. Giữa Pháp và Việt Nam dường như có nhiều điểm chung về kiến trúc và quy hoạch đô thị.
Đi bộ ở Hà Nội, tôi không chỉ di chuyển trong không gian mà còn chu du qua thời gian. Những công trình ở Hà Nội chứa đựng nhiều tầng nấc và chiều kích lịch sử.
– Ông quan tâm thế nào đến văn học Việt Nam?
– Văn học Việt Nam là một lĩnh vực mà tôi cần khám phá thêm. Tôi chưa đọc tác phẩm nào về văn học Việt Nam, cả quá khứ lẫn hiện tại. Giờ đây, khi đã có cảm nhận và ấn tượng về Việt Nam, đó sẽ là động lực để tôi tìm hiểu văn chương của các bạn.
Éric-Emmanuel Schmitt sinh năm 1960 tại Sainte-Foy-lès-Lyon (Pháp) trong một gia đình trí thức. Năm 11 tuổi, Schmitt đã viết truyện ngắn đầu tiên của mình.
Sau một thời gian làm giáo viên, Éric-Emmanuel Schmitt chuyển hẳn sang sáng tác. Hai thập kỷ sau thành công của vở kịch đầu tay 'Đêm Valognes', ông đã trở thành một trong những tác giả nổi tiếng nhất của Pháp trên toàn thế giới, với các tác phẩm được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ.
Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông đã được dịch sang tiếng Việt như 'Nửa kia của Hitler' (giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2008), 'Con của Noé', 'Một mối tình ở điện Élysée', 'Một ngày mưa đẹp trời', 'Chàng Sumo không thể béo', 'Oscar và bà áo hồng'.
Nguồn: vnwriter.net