Sách “An Nam Truyện” – tập hợp các ghi chú về Việt Nam trong sử Trung Quốc – cho thấy có nhiều sai lầm trong việc viết về lịch sử của nước ta từ các triều đại Trung Quốc.
Trong cuốn An Nam Truyện, dịch giả – nhà nghiên cứu độc lập Châu Hải Đường (Lê Tiến Đạt) – nhận xét: “Thường việc ghi nhận cái chết của các vua Việt Nam trong sử Trung Quốc bị trễ một năm. Do xa cách về địa lý, các sứ thần báo tang phải mất từ 7-8 tháng, thậm chí cả một năm mới đến được kinh đô Trung Quốc. Sử quan Trung Quốc ghi chép sự kiện vào thời điểm nhận được thông báo về cái chết”.
Chênh lệch về thời gian
“Ví dụ, Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng vua Lê Hoàn mất vào tháng Ba năm Ất Tị (1005), trong khi sử Tống ghi là ‘Năm Cảnh Đức thứ ba (1006), Hoàn qua đời, con trai thứ hai là Long Việt'”.
Các vị vua của nhà Lý và nhiều triều đại sau này cũng bị ghi chép trong sử nhà Tống trễ một năm so với sử Việt.
Sách An Nam TruyệnVề tuổi của một số vua Việt Nam, sử Trung Quốc cũng không nắm chính xác. Khi vua Lý Thái Tổ qua đời, sử Tống ghi nhận: “Công Uẩn qua đời, 44 tuổi”, trong khi lịch sử Việt ghi rõ Lý Thái Tổ sinh năm 974, sống đến tuổi 55.”
Trong Nguyên sử, phần đầu về lịch sử Việt Nam ghi: “Nhà Tống phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương, con là Liễn cũng làm vương. Truyền qua ba đời thị bị Lý Công Uẩn chiếm đoạt”. Do đó, Nguyên sử đã bỏ qua thời kỳ Tiền Lê của vua Lê Hoàn, kéo dài đến 29 năm qua 3 thế hệ.
Về mốc thời gian khi Trung Quốc công nhận Đại Việt là một quốc gia độc lập, hai sử sách ghi lại sự kiện này một cách khác biệt. Đó là lúc vua Đại Việt được phong làm An Nam quốc vương.
Trước đó, các vị vua Việt Nam chỉ được Trung Quốc phong làm Giao Chỉ quận vương và sau khi qua đời mới được phong làm Nam Việt vương. Một số vua như Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông được phong làm Nam Bình vương khi còn sống, nhưng chưa được phong vương quốc.
Trong khi Đại Việt sử ký toàn thư ghi năm 1164 vua Tống Hiếu Tông phong Lý Anh Tông làm An Nam quốc vương, sử Tống lại ghi nhận sự kiện này vào năm 1174: “Tháng 2, năm Thuần Hi nguyên niên (1174), vua Tiên Tộ (Lý Anh Tông) được phong làm An Nam quốc vương, tự hiệu Thủ Khiêm Công thần. Năm thứ hai, vua ban tặng con dấu quốc gia An Nam”.
Đến thời Lê Thái Tổ, Minh sử ghi nhận: “Mặc dù nhận sắc mệnh (được phong làm quốc vương An Nam), nhưng vẫn giữ danh hiệu đế, niên hiệu là Thuận Thiên. Xây dựng hai kinh đô ở Đông, Tây, chia nước thành 13 đạo”.
Tuy nhiên, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về thời Lê Thái Tổ “chia nước thành 5 đạo”, và chỉ đến thời Lê Thánh Tông, quốc gia mới được chia thành 13 đạo thừa tuyên.
Về việc Lê Thái Tổ xưng đế, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn ghi: “Khi Lê Thái Tổ lên ngôi vua, tôi làm tờ biểu dâng đế hiệu, nhưng ông từ chối nhận, mọi tờ chiếu, tờ cáo đều gọi ông là vương. Thậm chí, ở thời Lê Thái Tông, Nhân Tông vẫn tiếp tục sử dụng vương hiệu”.
Sử Trung Quốc thường không ghi chính xác về những trận thua trước quân đội Việt Nam.
Các tài liệu sử Trung Quốc thường không đề cập cụ thể về các thất bại của họ trước quân đội Việt Nam. Ví dụ, chiến thắng của vua Lê Hoàn trước quân Tống năm 981 chỉ được ghi ngắn gọn: “Lê Hoàn đánh bại Hầu Nhân Bảo, Nhân Bảo bị tiêu diệt. Hứa Trọng Tuyên được gửi đi báo cáo sự kiện này, sau đó quân đội Tống đã rút lui”.
Mặc dù chỉ ghi sơ sài như vậy, nhưng tài liệu sử Trung Quốc vẫn tiết lộ rằng đó là một thất bại lớn của quân đội Trung Quốc, với việc các tướng lĩnh khác đều bị trọng tội.
“Vua sai sứ đến hặc tội bọn Trừng, Thực, Soạn. Không lâu sau, Trừng mắc bệnh tử vong, còn bọn Thực bị tấn công và giết ở chợ Ung Châu. Toàn Hưng khi trở về cửa khuyết, cũng bị thuộc lại và bị giết, những kẻ còn lại bị xử lý tùy theo mức độ tội lỗi. Nhân Bảo được thưởng (tước) Công bộ Thị lang”.
Về ba lần quân Nguyên – Mông xâm lược đất nước chúng ta, trong lần đầu tiên vào năm 1258, Nguyên sử chỉ ghi lại rằng quân Nguyên đã xâm nhập và đánh bại hải quân của nhà Trần, khiến vua và quan lại nhà Trần phải rút lui khỏi Thăng Long.
Khi quân Nguyên chiếm Thăng Long, “họ tìm thấy hai sứ giả đang bị giam trong ngục, bị tre găm vào cơ thể, gây ra những vết thương nặng. Khi họ được thả ra, một trong hai sứ giả đã tử vong. Họ đã phá dỡ thành phố đó. Quân Nguyên ở lại trong 9 ngày, nhưng do thời tiết nóng bức, họ đã rút quân về”.
Trong 2 cuộc tấn công sau của quân Nguyên vào các năm 1285 và 1288, Nguyên sử ghi chép chi tiết hơn, nhưng chủ yếu là về việc tuyên truyền chiến thắng, và cuối cùng chỉ giải thích việc rút lui trong cuộc tấn công thứ hai là do “quan lính thiếu hụt, thương binh nhiều, và kỵ binh của Mông Cổ không đủ khả năng cạnh tranh với binh sĩ tài năng”.
Còn trong cuộc tấn công thứ ba, quân Nguyên quyết định rút lui vì các chỉ huy đánh giá rằng: “Giao Chỉ không có các pháo đài để giữ, không có nguồn lương thực, thuyền chở lương thực của Trương Văn Hổ cũng không thể tiếp cận, ngoài ra, thời tiết nắng nóng, sợ rằng binh sĩ sẽ kiệt sức, không đủ lực duy trì trong thời gian dài, điều này sẽ làm mất mặt cho triều đình, vì vậy toàn bộ quân đội đã rút lui”, và cuối cùng, “Trấn Nam vương (Thoát Hoan) đã tuân theo”.
Sách An Nam TruyệnLiên quan đến bên thứ ba, Minh sử còn ghi lại việc quân nhà Lê vào năm 1442 đánh Chiêm Thành, bắt vua Ma Ha Bôn Cai đưa về nước, trong khi sử nước ta không ghi chép sự kiện này.
Gần hơn, trong những năm đầu của phong trào Tây Sơn, sử nhà Thanh, tức là bộ Thanh sử cảo, đã lưu lại thông tin sai lệch: “Nguyễn Huệ tự phong mình là Thái Đức vương, Trịnh Đống (hay Trịnh Sâm) tự phong mình là Trịnh Tĩnh vương, hai bên không thua kém nhau, Duy Đoan (hay vua Lê Hiển Tông) không thể làm gì được”.
Trong khi đó, sử Việt ghi nhận rằng Nguyễn Nhạc mới tự phong là Thái Đức Hoàng đế, Nguyễn Huệ chỉ được phong làm tướng quân.
Hoặc như về niên hiệu của vua Gia Long, sử nhà Thanh cho rằng: “Nguyễn Ánh chiếm được nước, phần lớn nhờ binh lực tại Gia Định và Vĩnh Long, vì vậy anh ấy lấy tên của hai tỉnh đó làm niên hiệu, gọi là Gia Long”. Ngược lại, theo sử nhà Nguyễn Đại Nam thực lục, cho đến năm 1823, vua Minh Mạng mới đổi tên trấn Vĩnh Thanh thành Vĩnh Long.
Theo nhà nghiên cứu Châu Hải Đường, các bộ sử Trung Quốc đều phản ánh quan điểm của sử gia Trung Quốc xưa. Do nhiều hạn chế trong việc thu thập và xử lý thông tin, cũng như về thời gian và địa lý, nên có nhiều điểm trong các bộ sử này sẽ không chính xác hoặc khác biệt so với sử Việt.
Để giúp độc giả hiện nay có thể hiểu, so sánh và khám phá một góc nhìn mới về sử Việt, tác giả Châu Hải Đường đã tổng hợp tất cả thông tin về Việt Nam từ 17 bộ chính sử Trung Quốc để dịch và biên soạn thành An Nam Truyện.
Đây là một tài liệu quý giá dành cho những ai đam mê khám phá và tìm hiểu về lịch sử của Việt Nam.
Nguồn: https://isach.net/