Tôi ổn - Bạn ổn: Khám phá cách nhìn sẽ tìm thấy thứ tự do tự do
cách nhìn sẽ tìm thấy thứ tự do tự do
sẽ tìm thấy thứ tự do tự do do
tìm thấy thứ tự do tự do do bản thân
thứ tự do tự do do bản thân tạo ra
có thể
thay đổi
cuộc đời mình
'Tôi ổn - Bạn ổn' - Giải phóng bản thân và thay đổi cuộc đời
Tôi ổn - Bạn ổn’
và hành trình có thể bắt đầu tự chữa lành
Tôi ổn - Bạn ổn’
Gỡ bỏ gánh nặng “Tôi không ổn” từ tuổi thơ để sống hạnh phúc
Khám phá cấu trúc nhân cách và phương pháp trị liệu tâm lý trong Thuyết phân tích Tương giao
Tại sao chúng ta làm điều chúng ta làm, và làm thế nào để ngưng điều ta đang làm nếu muốn?
Phần đông chúng ta đều bước vào đời với một phần nhân cách dễ tổn thương, chứa đầy cảm giác “tôi KHÔNG ỔN” - kết luận táo bạo này
này
của Thomas Harris trong cuốn sách
“Tôi ổn - Bạn ổn”
hẳn đã chạm đến tâm can của rất nhiều người trong số chúng ta
.
Ra mắt lần đầu tiên vào năm 1969, nhờ chạm đến một nỗi niềm phổ quát của con người, “Tôi ổn - Bạn ổn” (“I’m OK - You’re OK”) trở thành một trong những tác phẩm tâm lý học kinh điển nhất từng được xuất bản. Đến nay, “Tôi ổn – Bạn ổn” đã được dịch ra 20 thứ tiếng với hơn 15 triệu bản in.
Thông qua cuốn sách, bác sĩ tâm thần Thomas Harris giúp mỗi người đọc thấu hiểu phần nhân cách dễ bị tổn thương của mình, thứ có nguồn gốc từ những trải nghiệm tiêu cực đầu đời. Ông chỉ ta cách vượt lên trên quá khứ để sống với thực tại mới với lòng tự tin, niềm vui trong trẻo, và khả năng kết nối thân mật với người khác lẫn hạnh phúc đích thực.
Những “cuộn băng quá khứ” áp đặt lên hiện tại
“Tôi ổn - Bạn ổn” sử dụng các nguyên tắc của Phân tích Tương giao (Transactional Analytics) - một học thuyết và phương pháp trị liệu tâm lý được phát triển bởi tiến sĩ Eric Berne.
Bằng chứng lâm sàng chỉ ra rằng, não bộ con người có khả năng ghi lại những ấn tượng quan trọng trong thời thơ ấu - trung thực và chính xác hệt như một chiếc máy ghi âm. Những ký ức tuổi thơ, vì thế được não bộ lưu trữ giống như trong những “cuộn băng”. Trong đó, những “cuộn băng” về cảm xúc nội tâm của đứa trẻ - từ sự tò mò ban sơ, niềm vui được vỗ về cho đến những sợ hãi, hoảng loạn mà mọi đứa trẻ nhỏ bé đều từng trải qua - được lưu giữ trong phần Cái Tôi Trẻ Em (Child - C).
Còn phần Cái Tôi Cha Mẹ (Parent - P) là tập hợp những cuộn băng về người lớn xung quanh đứa trẻ, cùng với những gì họ nói và làm.
Điều đáng nói, những dữ kiện trong Cái Tôi Cha Mẹ và Cái Tôi Trẻ Em, dù được hình thành chủ yếu trong 5 năm đầu đời, vẫn có thể được “phát lại” bất cứ lúc nào trong cuộc sống về sau - mỗi khi bị kích thích bởi các yếu tố bên ngoài. Chính sự “phát lại” này khiến hành vi, cảm xúc và nhận thức của con người giống như đang bị một “trạng thái cái tôi” (ego state), một nhân cách riêng biệt giành quyền kiểm soát.
Ở hiện tại, trong quá trình tương tác, giao tiếp với người, nếu một trong hai Cái Tôi trên bị “câu ra”, chúng ta sẽ phải sống lại những cảm xúc từ những tình huống gốc cũ xưa; và thực tại, nhận thức lẫn cách giải quyết vấn đề của ta sẽ bị giới hạn như chúng từng bị trong thời thơ ấu.
TÔI KHÔNG ỔN - BẠN ỔN” và cách sống tiêu cực của số đông
Ngoài các khuôn mẫu hành vi, cảm xúc rập khuôn và lỗi thời, theo Thomas Harris, những dữ kiện trong Cái Tôi Cha Mẹ và Cái Tôi Trẻ Em còn tạo ra một “sản phẩm phụ” tiêu cực khác: vị thế sống “TÔI KHÔNG ỔN – BẠN ỔN”.
Khái niệm “vị thế sống”, theo Harris, là cách con người cảm nhận về bản thân trong mối tương quan với người khác. Ngoài “TÔI KHÔNG ỔN – BẠN ỔN” ra, còn có hai vị thế sống tiêu cực khác, gồm “TÔI KHÔNG ỔN - BẠN KHÔNG ỔN” và “TÔI ỔN – BẠN KHÔNG ỔN”.
Theo Harris, những sợ hãi, hoảng loạn, thất vọng, tổn thương, bất lực lẫn cảm giác thấp kém của một đứa trẻ trước những người lớn trong môi trường xung quanh sẽ tạo cho chúng cảm giác không ổn về bản thân.
Ba vị thế sống tiêu cực này sẽ được xác lập, rất khó bị phá vỡ, và được đứa trẻ mang theo suốt đời, trừ khi chúng quyết định một cách có ý thức về việc chuyển sang vị thế sống “TÔI ỔN - BẠN ỔN” - vị thế sống duy nhất đảm bảo sự hạnh phúc.
Còn nếu không được thay đổi, ba vị thế sống tiêu cực này trở thành căn cơ của những đau khổ trong cuộc sống: Ta sẽ sống mà liên tục tìm kiếm sự công nhận và phần thưởng từ bên ngoài - tất cả nhằm giảm nhẹ gánh nặng đau đớn của cảm giác không-ổn mình đang mang.
“Họ bị giam cầm trong một cuộc sống không ngừng leo thang, khi họ đạt tới một đỉnh núi thì họ lại đối mặt với một ngọn núi tiếp theo”, Harris mô tả. Cách sống đó, theo tác giả, không thể nào tạo ra hạnh phúc hay ý nghĩa có giá trị lâu dài.
Giải pháp: Giải phóng Cái Tôi Người Lớn
Ngoài 2 thành phần Cái Tôi đã nêu, còn có một Cái Tôi khác được phát triển muộn hơn và là niềm hy vọng cho mọi sự: Cái Tôi Người Lớn (Adult - A).
Cái Tôi này được hình thành từ khi trẻ 10 tháng tuổi, bắt đầu trải nghiệm năng lực vận động, trẻ nhận ra nó có thể làm việc gì đó xuất phát từ suy nghĩ của riêng nó. Khả năng tự-thực-hiện này chính là sự khởi đầu của Cái Tôi A.
Khác với 2 Cái Tôi trước - chỉ tập hợp các bản ghi thụ động và không biết chất vấn, Cái Tôi Người Lớn hoạt động như một “chiếc máy tính”, biết truy vấn, cập nhật, thay đổi dữ liệu từ Cái Tôi Cha Mẹ, Cái Tôi Trẻ Em và nguồn dữ liệu khổng lồ từ thực tế bên ngoài, cùng những ước đoán về những điều chưa được trải nghiệm; từ đó đưa ra quyết định thoả đáng trước thực tế mới mẻ.
“Chúng ta chỉ có thể tách biệt quá khứ ra khỏi hiện tại bằng cách sử dụng Cái Tôi Người Lớn”, Harris cho biết. Một Cái Tôi Người Lớn vững chãi sẽ nhận ra cảm giác, nhận định xưa cũ trong Cái Tôi Trẻ Em lẫn Cái Tôi Cha Mẹ đã lỗi thời; đủ tự chủ để “tắt” cảm xúc không ổn về bản thân mỗi khi bị kích thích từ môi trường bên ngoài; đủ niềm tin và sự kiên nhẫn để xây dựng một cuộc sống khác với quá khứ.
Giải phóng Cái Tôi Người Lớn cũng là chìa khóa quan trọng cho cuộc sống trong tư duy “TÔI ỔN - BẠN ỔN” của mỗi người. Vì vậy, câu hỏi cốt lõi “Làm thế nào để duy trì Cái Tôi Người Lớn?” được Thomas Harris nỗ lực giải đáp trong cuốn sách.
Phân tích Tương giao xoay quanh việc phân tích ba phần tử Cái Tôi của mỗi người (hay mô hình P-A-C) trong các tương giao, đã trở thành công cụ hỗ trợ quan trọng cho các phương pháp điều trị và trị liệu nhóm trong lĩnh vực tâm lý học. Trong “Tôi ổn - Bạn ổn”, tác giả đã thảo luận một cách tỉ mỉ về việc áp dụng mô hình P-A-C để giải quyết các vấn đề trong tình yêu, quan hệ cha mẹ - con cái, tâm lý tuổi vị thành niên và các vấn đề xã hội.
“Tôi ổn - Bạn ổn” cũng chứa đựng các thí nghiệm, nghiên cứu, quan điểm từ các nhà tâm lý học, nhà trị liệu tâm lý và bác sĩ, cùng với nhiều câu chuyện thực tế từ các bệnh nhân mà Harris đã điều trị. Tuy nhiên, tác giả sử dụng ngôn từ đơn giản nên tác phẩm dễ đọc và hiểu với độc giả rộng lớn.
Đối với mỗi cá nhân, việc đọc cuốn sách này giống như một quá trình tự phân tích. Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ lưỡng về Cái Tôi Cha Mẹ, Cái Tôi Trẻ Em và Cái Tôi Người Lớn của chính mình, nhìn thấy những nỗi đau từ quá khứ và dấu vết của chúng trong hiện tại - và từ đó, với sự hướng dẫn cụ thể của Harris, nhiều hành trình tự chữa lành có thể bắt đầu...
Lý thuyết về 4 vị thế sống của Thomas Harris:
“TÔI KHÔNG ỔN - BẠN ỔN”: Vị thế sống tiêu cực đầu đời của đa số. Ở vị thế này, người ta tự nhìn nhận bản thân mình như kém cỏi, không đáng giá và luôn tìm kiếm sự chú ý và thừa nhận từ người khác.
“TÔI KHÔNG ỔN - BẠN KHÔNG ỔN”: Thường xuất hiện ở trẻ em bị bỏ rơi, bị bỏ quên. Trong tình cảnh này, Cái Tôi Người Lớn không phát triển và cá nhân rơi vào trạng thái bi quan và tuyệt vọng.
“TÔI ỔN – BẠN KHÔNG ỔN”: Harris gọi đây là vị thế của kẻ phạm tội, thường gặp ở trẻ em trải qua bạo hành nặng nề. Người sống ở vị thế này thiếu tính khách quan về bản thân và thường đổ lỗi cho người khác. Họ dễ dàng lạc quan lý luận và tham gia vào hành vi phạm tội.
“TÔI ỔN – BẠN ỔN”: Đây là vị thế được chọn bởi Cái Tôi Người Lớn lành mạnh, được giải phóng, là vị thế duy nhất đảm bảo hạnh phúc cho con người.
Về tác giả
Thomas A. Harris (1910 - 1995) tốt nghiệp Cử nhân Khoa học tại Đại học Arkansas (1938) và Bác sĩ Y khoa tại Đại học Temple (1940). Anh được đào tạo về tâm thần học tại bệnh viện Saint Elizabeth, từng là bác sĩ phụ trách sức khỏe tâm thần trong Hải quân (Thế chiến II), cũng như từng tư vấn cho cựu tù binh Mỹ. Sau này, Harris mở một phòng khám tâm thần tư nhân ở Sacramento.
Bị lôi cuốn bởi học thuyết của Eric Berne, Thomas A. Harris bắt đầu hợp tác chặt chẽ với Bern từ năm 1960 để truyền bá và áp dụng Phân tích Tương giao vào trị liệu lâm sàng. Với tác phẩm của mình, Harris có công lớn trong việc làm cho phương pháp này trở nên đơn giản, dễ hiểu, dễ tiếp cận với nhiều độc giả phổ thông.