Bên cạnh những cánh đồng bùn lầy, là những rừng xanh mướt, cuộc sống tự do, bao quanh là cỏ dại um tùm. Con trâu có lẽ cũng hiểu điều đó, nhưng nó không dám rời xa, không dám cắt đứt sợi dây thừng. Điều gì giữ con trâu ở lại đồng bằng và ngăn cản con người đến với một cuộc sống mở rộng, đẹp đẽ hơn? Đó chính là thói quen, là nỗi sợ hãi sự thay đổi, là nỗi sợ hãi những gì chưa từng trải qua. Nhưng trên thế giới này, không có điều gì đến hai lần. Sống đồng nghĩa với việc thay đổi…
Câu chuyện mở ra trong không khí u ám của nghề giáo, trong tâm trạng mất mát của một thầy giáo Tây, Thứ. Thứ có trình độ cao, kiến thức rộng, đã vượt qua khỏi giới hạn của làng quê, rời xa khỏi lũy tre, để lại người mẹ già, người vợ trẻ và đứa con nhỏ, để đến Hà Nội, giảng dạy trong một trường tư của Đích - anh họ Thứ. Ở đó, Thứ đã phải đối mặt với những vấn đề, khó khăn, những cảm xúc đau buồn, đau khổ. Chuyện nhà trọ, vấn đề tiền lương, sự kỳ thị, sự hẹp hòi. Ở đó, Thứ đã tiếp xúc với nhiều loại người trong xã hội. Đó là chủ nhà trọ, lúc nào cũng lao động mệt mỏi, chăm sóc sân nhà, chuồng trại, nhưng không bao giờ nghĩ đến việc cung cấp nước cho hai đứa con trai của mình và cho chính bản thân; là người đàn ông bán hàng rong, mỗi tháng kiếm được hai đồng mà “đã dám lấy hai vợ”. Đó là người phụ nữ trẻ, nghèo khó, cô đơn nuôi hai đứa con nhỏ, sống thuê trong căn nhà lá, kiên nhẫn, chấp nhận sự hiện diện của người chồng thứ hai bên cạnh. Đó là những con người sống cùng nhau trong những mái nhà thấp kém, vất vả và dơ bẩn. Mỗi người, mỗi câu chuyện cuộc đời…
Cuộc sống bị bao phủ bởi nghèo đó
Nghèo không mang lại lợi ích gì. Nó làm mòn đi sức mạnh, làm héo úa tâm hồn. Nó biến con người thành những kẻ yếu đuối, nhỏ bé, ích kỷ, bám đất bám cỏ. Nó tạo ra những kẻ nô lệ.
Nghèo khiến Oanh, một phụ nữ có trình độ học vấn, biến thành một người sống hẹp hòi, nhỏ bé và vô vị, một người sẵn sàng chia bữa ăn mỗi người một ít, để họ cảm thấy ngượng trước sự nghèo đói. Oanh sống trong cảnh cực khổ, đến mức khi người yêu của cô ấy đang ốm nặng, cận tử, chính cô ấy cũng lo sợ rằng mình sẽ phải mua thuốc thang, hoa tang cho người chồng sắp cưới của mình. Nhưng cô ấy không có tiền làm điều đó.
Nghèo làm dân mình cảm thấy đói kém, đói kém và bất lực. Nghèo sinh ra sự ganh tị, những than vãn, những ngậm ngùi, những nỗi buồn, sự khó chịu của con người. Đối với Thứ, hình ảnh của một nhóm người rách rưới, nghèo đói luôn là nỗi ám ảnh lớn nhất trong cuộc đời anh. Bởi trong nhóm người đó, có người mẹ già, có vợ, có đứa con yêu quý của anh. Bởi trong nhóm người đó, có những bà cụ đau khổ, hay một đứa em nhìn trộm nồi cơm để hy vọng có thêm một bữa ăn nữa…
Và cũng chính nghèo, đã làm tan vỡ hạnh phúc của vợ chồng Liên và Thứ. Đã có bao nước mắt, nụ cười chua chát và nỗi buồn trước cảnh hai vợ chồng sống mỗi ngả một nẻo suốt cuộc đời, cũng là nguồn gốc của biết bao nghi ngờ, hiểu lầm, những cảm giác đau khổ, tổn thương…
Liên nói với y trong buổi chiều cuối cùng của kỳ nghỉ Tết, nắng rực rỡ: “Đúng, không có tội nào lớn hơn tội nghèo. Chỉ vì nghèo mà chúng ta phải sống xa cách, mỗi người một nơi, một đường suốt cả đời. Có khổ không? Mình sống với nhau từ khi mới cưới đã sáu năm rồi, nhưng tính tất cả những ngày gần nhau, tôi chắc chắn chưa đầy ba tháng. Thì có khổ không? Người ta chỉ cần chịu đói, chịu nghèo, còn tôi thì phải chịu cả chồng!”...
Tình yêu là điều cứu rỗi tâm hồn
Bởi tình yêu sẽ vượt qua mọi trở ngại của tình thế, tiền bạc và vị thế xã hội, để mầm mống và phát triển mạnh mẽ trong lòng mỗi người. Tình yêu không phân biệt ai, dù là những người nghèo khó, bần cùng, là 'những kẻ dơ dáy, những người thấp kém, những anh hồ chàng hề, những chị phu nhân, những người dơ bẩn và hèn hạ, hôi hám, thô kệch, xấu xí', họ cũng cần yêu thương, yêu thương một cách cao quý và đẹp đẽ.
...Nhưng rõ ràng, không có tình yêu nào mạnh mẽ và đẹp đẽ hơn tình yêu giữa vợ chồng Mô. Họ hi sinh, mặc dù chưa bao giờ nói về việc hi sinh. Một người biết hi sinh hạnh phúc của mình chỉ để yêu. Người kia biết từ bỏ cuộc sống của mình để yêu, có lẽ vì họ nhận ra rằng tình yêu quý giá gấp mười lần sự sống. Và không có tình yêu nào mạnh mẽ và đẹp đẽ hơn thế.
Tình yêu cũng mang lại cho con người những cảm xúc kỳ lạ, ganh ghét, đố kị, nghi ngờ, ghen tuông, tức giận không có lý do. Khoảng cách giữa Thứ và Liên kéo dài, cũng là khoảng thời gian mà những nỗi đau của Thứ dần trỗi dậy. Đó làm cho tình yêu của Thứ luôn chứa đựng vị đắng. Nó làm cho anh ấy yêu một cách đau khổ. Nó khiến anh ấy tin vào những lời đồn đại, để rồi sống trong nỗi đau suốt những tháng ngày, để rồi làm tổn thương Liên, chính anh ấy và Liên.
Đó chính là tình yêu, khi gặp phải nghèo khó, đau khổ, và sự cách biệt. Nhưng không, niềm tin, tình thương sẽ luôn là giá trị vững chắc không thể phá vỡ. Không có khó khăn nào, không có hoàn cảnh nào, không có sự cám dỗ nào có thể ngăn cản những người đang yêu và xứng đáng được yêu, đến với nhau, ở bên nhau, hỗ trợ lẫn nhau.
Và kiến thức là điều không thể đánh đổi
Truyện của Nam Cao luôn đặc biệt quan tâm đến những người trí thức nghèo trong xã hội Việt Nam trước năm 1945, những 'giáo khổ trường tư', những nhà văn nghèo, những viên chức nhỏ. Họ là những người có kiến thức sâu sắc về cuộc sống và phẩm chất, có hoài bão, lòng nhiệt huyết và tài năng, mong muốn xây dựng một tinh thần cao quý; nhưng lại chịu áp lực của cuộc sống nghèo khó và hoàn cảnh xã hội, làm tổn thương tinh thần.
Thứ không phải là ngoại lệ.
Với Thứ, học vấn là điều quan trọng nhất. Anh không bao giờ đồng ý hy sinh kiến thức để đổi lấy tiền bạc hoặc địa vị xã hội cao hơn. Dù cuộc đời có đầy khó khăn và gian khổ, anh sẽ không từ bỏ kiến thức anh đã học, điều mà anh phải hy sinh rất nhiều để có được, để theo đuổi ước mơ. Với anh, kiến thức là vô giá!
Sống Mòn, Hay Chết Mòn?
Ban đầu, tác phẩm có tên là Chết Mòn. Có lẽ Nam Cao muốn nhấn mạnh đến những thử thách mà những người trí thức nghèo như Thứ phải đối mặt. Cuộc sống đã trở nên khó khăn và gian truân với Thứ, khiến anh không thể vượt qua được, và tâm hồn anh dần chết đi, trong cuộc sống mà anh đã lựa chọn.
Bằng việc đổi tên từ Chết Mòn thành Sống Mòn, Nam Cao đã đưa tác phẩm tiểu thuyết của mình lên một tầm cao mới.
Trở về Hà Nội, anh sống rụt rè hơn, cảm thấy bế tắc hơn, sống thiếu quyết tâm. Anh chỉ còn tâm niệm về việc tiết kiệm, đầu tư, và nuôi sống gia đình. Nhưng ít ra, anh vẫn có thể kiếm sống được, có thể đảm bảo bát cơm hàng ngày. Nhưng điều trist trọng hơn là anh cảm thấy buồn bã. Anh sẽ trở thành kẻ mất tất cả, sống một cuộc đời không ý nghĩa, không có gì để nhớ.
Sống Mòn như chết từng ngày. Sống không còn ý nghĩa như chết. Chết ngay trong từng khoảnh khắc sống. Đó là cuộc sống mòn mỏi, là cuộc sống không đáng sống. Không ai mong muốn sống như thế. Nhưng thực tế, có những người phải trải qua những cuộc sống đáng thương đó, và nhiều hơn thế nữa.
Họ có ước mơ, hoài bão, khát khao thay đổi cuộc sống, nhưng cuộc sống lại đặt ra nhiều trở ngại. Họ có kiến thức, nhưng xã hội đẩy họ vào vòng luẩn quẩn của nghèo khó, làm mất đi những niềm vui giản đơn, những khoảnh khắc hạnh phúc. Cuộc sống của những người như Thứ, San... là một minh chứng sống động cho sự đau khổ và vô nghĩa của cuộc sống mòn mỏi.
Với việc đặt tên là Sống Mòn, Nam Cao đã thể hiện sự sắc lạnh của triết lý nghệ thuật. Cách diễn đạt riêng biệt, buồn thảm, chua chát, miêu tả tâm lý nhân vật, những khổ đau của số phận con người. Một lần nữa, tâm lý nhân vật là trung tâm của sự chú ý, là đối tượng mà Nam Cao tập trung. Và một lần nữa, Sống Mòn trở thành điểm sáng trong nghệ thuật sáng tác của Nam Cao, một trong những tác phẩm đáng ngưỡng mộ và cao quý nhất của văn học hiện thực phê phán Việt Nam.
Tác giả: Thúy Hạnh - Sách của MytourBook