Thời kỳ bao cấp là một giai đoạn khó khăn, những mẩu ký ức của ông bà ta kể lại thường mang đầy nỗi vất vả. Đó là những kỉ niệm về một thời thế đầy biến động, với những cung bậc cảm xúc khác nhau: vui, buồn, cay đắng và thương cảm.
Bao cấp kéo dài từ đầu những năm 1976 đến cuối năm 1986, là thời kỳ mà Việt Nam đang dần hình thành chế độ chủ nghĩa xã hội. Từng bước, nền kinh tế quốc gia chuyển sang hình thức phân phối thực phẩm được nhà nước kiểm soát. Qua gần 30 năm, chúng ta đã trải qua không ít những bi kịch, từ những tiểu phẩm hài hước đến những cảnh buồn cười. Những câu chuyện này giờ chỉ còn là những kí ức đẹp qua những bức ảnh và những câu chuyện mà ông bà kể lại. “Sống thời bao cấp” của nhà báo Ngô Minh là một tác phẩm nói về những trải nghiệm, cảm xúc khi được sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ gian khó khăn nhưng cũng đầy hấp dẫn. Với ngôn từ nhẹ nhàng, sắc sảo và một chút hài hước, quyển sách này là một điểm kết nối giữa chúng ta và quá khứ, giúp chúng ta hiểu thêm về những khó khăn mà ông bà, cha mẹ của chúng ta đã phải trải qua trong quá trình xây dựng đất nước.
Tuổi thơ
Quê hương Quảng Bình những năm 1940 đầy khó khăn và gian khổ. Cuộc sống của những người dân ở đây phụ thuộc chủ yếu vào việc chài lưới và trồng khoai sắn. Thời kỳ đó, không phổ biến sổ gạo nên trong làng ít nhà nào có cơm đầy. Khoai lang là món ăn hàng ngày, được nấu thành nhiều món khác nhau như luộc, nấu canh, phơi khô... Có lẽ vì thế, người dân Quảng Bình thường nói: “Quảng Bình.. đất của khoai!”.
Thời xưa, nhà chỉ là nơi đơn giản được xây dựng từ cây phi lao gọt nham nhở, mái lợp bằng phên hay phủ toàn bằng cỏ rêu, nằm buồn bã trên nền cát trắng. Cả làng hầu như không có ngôi nhà nào có toilet riêng. Ai muốn đi vệ sinh thì phải ra bãi cát hay lội biển. Cảnh cát trải dài, tìm một gốc dương hay gốc dại là đủ để giải tỏa “bầu tâm sự”. Trẻ con thời đó, dù đã lên 11, 12 tuổi, học đến lớp 2, 3 nhưng vẫn thường cởi tồng ngồng đi chơi khắp xóm. Chơi suốt ngày, từ đánh khăn, bắt còng, bắt cáy... làm đứa nào cũng tóc đỏ, tóc vàng như người Hàn Quốc.
Vào năm 1963, chính phủ bắt đầu xếp ngư dân và diêm dân vào danh sách 'tiểu thủ công nghiệp'. Dân biển ở nơi này, nhà nào cũng đông con, sống trong điều kiện khó khăn. Nhờ có sổ gạo và phiếu tem vải, gánh nặng cơm áo và gạo tiền giờ đây đã giảm bớt phần nào. Không còn bắt buộc phải ra khơi mòn mỏi mỗi ngày, giờ đây gạo vẫn kín hồn đến tháng mới phải gánh về. Đầu mỗi tháng, cảnh người nhà nhà xếp hàng trước Cửa hàng Lương thực chợ Mai trên Quốc lộ 1 mua gạo. Có gạo có vải, cuộc sống của dân làng đã dễ dàng hơn phần nào. Tuy nhiên, vẫn còn nỗi đói và nghèo nơi đây. Bữa cơm hàng ngày chủ yếu là cơm độn kèm với khoai sắn. Những ngôi nhà vẫn đứng giữa bãi cát mênh mông, với cỏ tranh, cỏ rêu và cột gỗ mục mọng. Đói vẫn còn đó, hình ảnh những gia đình thiếu ăn chạy vạy từng bữa cơm vẫn còn mãi...!
Thời bao cấp có nhiều câu chuyện để kể, trong đó không thể không nhắc đến việc đi xem phim. Mỗi năm, ở Quảng Bình thường có nhiều đội chiếu phim lưu động đến các làng xóm. Tiếng loa phát thanh vang vọng khắp nơi, khiến người già và trẻ nhỏ nao lòng: 'Hôm nay đội chiếu phim số 175 sẽ phục vụ bà con hai bộ phim thời sự và phim truyện…'. Từ sớm, mọi người đã háo hức giữ chỗ trước. Đến tám giờ tối, thông báo trên loa: 'Buổi chiếu phim xin được bắt đầu.' Tiếng gió biển rì rào đập vào, khiến màn ảnh bay phập phồng như những lá cờ. Trẻ em đều mừng rơn, dài cổ ngóng nhìn lên màn ảnh.
Rất ít khi được xem phim tâm lý của Đông Đức hay Ba Lan vì các phim này được xem là phim đồi trụy. Thỉnh thoảng vẫn lọt ra vài phim, hôn nhau chán chê, chàng ấn nàng xuống rồi chuyển sang cảnh 'xong rồi', chỉ thế thôi nhưng dân chúng sướng mê man. Đôi khi chàng kéo tay nàng hoặc bế xốc nàng chạy vào buồng trong rồi chuyển sang cảnh “xong rồi”
Mỗi đầu buổi chiếu thường có ông chủ tịch xã lên phát biểu, “huấn thị” bà con. Huấn thị là mốt mà cán bộ thời đó người nào cũng chuộng. Các vị lãnh đạo thôn, xã ai cũng như quyển sách chính trị lưu động. Chục buổi như một, ngày nào ông chủ tịch xã cũng đằng hắng rồi lên giọng: “Hôm nay tôi xin nói với bà con ba điểm cần quán triệt… Điểm thứ nhất là…”. Xong hết chục điểm, cái thứ nhất, rồi thêm sáu bảy lượt “điểm thứ hai là..” khán giả ở dưới ngủ như rươi.
Sau khi hòa bình được thiết lập vào năm 1954, vùng Ngư Thủy hoàn toàn thiếu trường học. Chương trình giáo dục dân tộc vùng này cũng chưa được đưa đến. Trẻ con ở làng này chỉ biết đến cát và cá mà không hề biết gì về chữ cái. Cho đến khi thầy giáo Quảng Bá Hùng, tốt nghiệp trường Trung cấp Sư phạm Hải Dương, tự nguyện về làng quê nghèo để giảng dạy. Buổi học đầu tiên tại trường tiểu học Ngư Thủy, thầy cầm tay từng học sinh nắn từng nét chữ cái a, b, c, i, u... Chữ viết của thầy đẹp, lại còn nắn nót cẩn thận. Thầy nói: 'Chữ viết là nết người. Các em phải học viết chữ sao cho đẹp, đàng hoàng.' Những lời nói và hình ảnh đẹp ngày hôm ấy đã ấn sâu vào tâm hồn của từng học sinh cho đến ngày nay.
Trải qua những năm tháng tiếp theo, tác giả đã học hết trường làng, lên trường huyện, từ trường huyện lên trường tỉnh. Những năm học gian khổ cùng với cả mồ hôi và nước mắt. Nhưng sự gian khổ đã giúp rèn luyện bản lĩnh của con người. Trong kỳ thi đại học năm 1968, nhận được giấy báo trúng tuyển vào đại học Thương mại, cả làng đều mừng cho tác giả. Và đó là bước đi chính thức vào thời sinh viên với nhiều mơ ước và sự lãng mạn của thời kỳ bao cấp.
Thời sinh viên
Sinh viên thời bao cấp được Nhà nước chăm sóc 'chu toàn'. Tiền ăn hàng tháng chỉ đóng 18 đồng, mỗi ngày mang theo hòm cơm đến kantin mà không cần lo lắng. Cả bát đũa cũng được trường chuẩn bị sẵn. Ăn xong để lại sẽ có người rửa.
Tùy thuộc vào thời kỳ, có khi phải ăn độn ngô, bo bo, sắn khô nhưng ở Hà Nội thì chủ yếu là ăn độn mì. Buổi sáng, sinh viên nội trú nhận một cục mì luộc (bột mì nhào nước, nặn thành cái bánh bao sau đó luộc) cứng và khô khó nuốt. Bữa trưa là cơm độn kèm với mì sợi, bữa chiều lại là mì sợi độn với cơm.
Mỗi khi đến giờ ăn, hàng ngàn sinh viên lại tụ tập về nhà ăn, tạo nên không khí ồn ào và náo nhiệt. Tiếng chảo đũa liên tục vang lên, tạo nên âm thanh leng keng. Trong góc phòng, có một thùng rượu gạo rang pha muối được đặt để phục vụ sinh viên. Đối với những sinh viên thiếu thức ăn, họ sẽ sử dụng thêm. Cuộc sống sinh viên thời bao cấp, dù có vẻ đơn giản nhưng lại vô cùng phong phú.
Năm 1968, trường Đại học Thương mại đã được chuyển đến huyện Kim Động, Hưng Yên. Sống xa thủ đô, thiếu điều kiện vật chất, sinh viên thường chỉ có cơm và mì luộc hàng ngày. Một bữa cơm gồm sáu đứa một cái đĩa, canh rau muống nước lỏng được chia nhau. Bữa ăn này thường được gọi là “canh toàn quốc”. Thức ăn được đặt xuống dưới đất, sau đó cả nhóm quay quần lại để chia nhau mỗi người một phần mì luộc to.
Khi nói đến thời sinh viên, không thể không nhắc đến chuyện tình yêu. Dù yêu nhau nhưng việc hôn nhau là điều nghiêm cấm. Bất kỳ cặp đôi nào chưa kết hôn mà hôn nhau trước mặt người khác đều bị xem là không đứng đắn. Ký túc xá có chia rõ ràng phòng nam và nữ. Từ chín giờ tối, con trai không được phép qua khu phòng của con gái. Một anh chàng tên Khoa, quê ở Hải Phòng, học lớp Kinh doanh hàng Công nghệ phẩm 4 đã yêu cô Sò. Nghỉ hè năm thứ ba, họ là hai người duy nhất ở lại. Đêm đó, họ lên sân thượng và hôn nhau một cách say đắm. Họ nghĩ không ai thấy nhưng không ngờ có một ông bảo vệ lên kiểm tra cầu thang và chứng kiến cảnh đó. Ông lặng lẽ báo lại cho ban đội trường. Ngày hôm sau, họ bị mời lên văn phòng để làm bản kiểm điểm. Sau một lần viết bản kiểm điểm nhưng không chấp nhận, họ lại bị mời lên lần thứ hai. Cho đến lần thứ ba, sau khi công nhận rằng họ đã “hôn nhau”, họ mới được tha cho và trở về quê nhà. Kết thúc mùa hè, ban chi đoàn lớp tiếp tục kiểm điểm họ. Cuộc họp kéo dài suốt năm đêm. Cuối cùng, cặp đôi này phải cam kết sẽ không hôn nhau nữa.
Hà Nội thời bao cấp
Thủ đô với đất đai chật hẹp và dân số đông đúc, việc tìm nhà ở luôn là vấn đề cấp bách. Mặc dù có rất nhiều tòa nhà chung cư mọc lên nhưng vẫn chưa đủ để giải quyết vấn đề này. Ở Hà Nội thời bao cấp, không ai đủ tiền để mua đất xây nhà. Tất cả đều phải sống chật chội trong những căn hộ nhỏ do nhà nước cấp. Một không gian chỉ có 28m2 phải chứa đựng cả bốn thế hệ tứ đại. Tiếng trẻ con khóc cả ngày cùng với mùi phân lợn, gà, chim cút... tạo nên một không gian hỗn độn. Tất cả thành viên trong gia đình đều phải cố gắng sống qua từng năm.
Sau vấn đề nhà ở, việc lấy nước ở khu chung cư trở thành một thách thức lớn tại Hà Nội thời bao cấp. Ngay từ sáng sớm, hình ảnh hàng trăm người đứng xếp hàng kéo dài trước các vòi nước công cộng trên phố đã trở nên quen thuộc. Các khu tập thể có bể nước cũng chật ních người dân. Tại đây, mọi người tắm gội, giặt giũ gây nên sự đông đúc và ồn ào.
Việc xếp hàng trở thành một nghệ thuật, người ta không chỉ nói chuyện mà còn phải chú ý giữ chân đá thùng nước của mình để lấy nước đúng lúc. Nếu không cẩn thận trong việc xếp hàng, có thể dẫn đến cãi vã và xô xát. Mỗi ngày, mọi người đều tập trung để lấy nước, thường là các thùng sắt lớn. Có lẽ vì vậy mà bây giờ, mẹ tôi vẫn trêu chọc tôi nhỏ con.
Hà Nội trong những năm 60 và 80 liên kết với hình ảnh dài hàng xếp. Xếp hàng trở thành một phần của văn hóa hàng ngày. Người ta vẫn nhớ đến hình ảnh đông đúc, cãi vã trước hàng xếp hàng. Mỗi tuần, dân Hà Nội thường tổ chức các bữa tiệc tươi ngon, là dịp để gia đình sum họp và kết nối. Để chuẩn bị cho các buổi tiệc này, cả gia đình phải đầu tư rất nhiều tem thực phẩm và sớm đứng xếp hàng để mua thực phẩm, dầu ăn. Xếp hàng đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của người dân Hà Nội.
Thời kỳ phân phối
Trong thời bao cấp, nghề mậu dịch viên luôn được coi là một nghề hot. Những cô gái bán hàng luôn được các chàng trai săn đón. Với việc làm này, họ luôn có được những sản phẩm tốt nhất. Gạo ngon nhất, thịt mềm nhất, sấn mềm mại. Nhờ vào công việc của họ, người thân và bạn bè có thể nhờ mua hàng tốt hoặc sớm hơn. Và điều đó thật may mắn. Từ đó, quyền lực của họ đã tăng cao như núi.
Có một câu chuyện vui kể rằng, ông Phó chủ tịch tỉnh đi mua củi cho vợ. Khi đến hàng xếp hàng, ông đã cố gắng sử dụng quyền lực của mình, nhưng cuối cùng vẫn phải xếp hàng như mọi người khác. Câu chuyện này khiến nhiều người không khỏi cười.
Trong thời kỳ bao cấp, các đám cưới ở nông thôn thường rất giản dị. Cô dâu thường mặc áo Hongkong và quần phíp. Buổi tiệc thường chỉ là trà nước và thuốc lá, và nhiều gia đình chỉ có thêm bánh và kẹo. Mặc dù vậy, mỗi đám cưới vẫn mang đến niềm vui cho người tham dự.
Buổi tiệc thường bắt đầu bằng các bài phát biểu dài dòng về tinh thần chiến đấu và sự đoàn kết. Các đám cưới thường sử dụng pháo nổ để tạo ra không khí sôi động. Các quà mừng cưới thường là các hiện vật như phích nước, áo gối, và xoong nồi.
Trong chương trình ca nhạc, những bài hát như Chiếc gậy Trường Sơn thường được biểu diễn để tôn vinh tinh thần chiến đấu. Cô dâu chú rể thường đi từng bàn mời khách mời thuốc lá. Quà mừng cưới thường là những vật dụng thực tế như ấm nấu nước và chậu giặt.
Kết luận:
“Sống trong thời bao cấp” đưa ta trở lại một thời kỳ Việt Nam hoàn toàn mới lạ. Những hình ảnh về các cô mậu dịch viên và tem phiếu giờ đây chỉ còn tồn tại trong ký ức quá khứ. Đọc để hiểu, để cảm thông, để nhớ rằng chúng ta đã từng trải qua những thời kỳ đau khổ. Nhưng vượt lên trên tất cả, con người luôn hướng về tương lai tươi sáng. Những điều cũ kỹ và lạc hậu sẽ được loại bỏ để nhường chỗ cho những điều tốt đẹp hơn.
Tác giả: Ngọc Ấn - MytourBook