Không phải ngẫu nhiên mà cuốn sách này được đánh giá cao. 'Tư Duy Nhanh Và Chậm' của Daniel Kahneman đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá và là sự chú ý của giới trí thức.
Tác giả Daniel Kahneman, người đoạt giải Nobel kinh tế, mang lại sự kết hợp giữa kiến thức học thuật và sự dí dỏm trong cuốn sách, tạo ra một tác phẩm giáo dục và giải trí.
Mỗi cuốn sách mang lại những lợi ích riêng cho độc giả. 'Tư Duy Nhanh Và Chậm' có thể được coi là một nguồn cảm hứng cho mọi quyết định nhanh trong cuộc sống.
Nhiều người nổi tiếng đã nhận xét về cuốn sách như sau:
“Đối với những ai quan tâm đến đầu tư hoặc hành vi con người, cuốn sách của Kahneman là một tác phẩm đáng đọc. Trong đó, ông chỉ ra rằng chúng ta thường mắc phải những thành kiến khi đưa ra quyết định và cách tránh chúng.” – Larry Swedroe, CBS News.
“Daniel Kahneman đã mạnh mẽ thể hiện trong cuốn sách mới về cách con người có thể tách khỏi sự hợp lý.” – Christopher Shea, The Washington Post.
“Cuốn sách này hấp dẫn và đầy sâu sắc, kết hợp những nghiên cứu và ý kiến của nhiều chuyên gia. Đây là một cuốn sách rất đáng đọc và thực sự có thể áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.” – Jesse Signal, Boston Globe.
“Dainel Kahneman đã làm nổi bật tầm quan trọng của việc hiểu cách chúng ta tư duy và lựa chọn. Cuốn sách này là một tác phẩm kiệt xuất, truyền đạt nhiều kiến thức và sự khôn ngoan.” – Janice Gross Stein, The Globe and Mail.
Trong 'Tư Duy Nhanh Và Chậm', Kahneman giải thích về Hệ thống 1 và Hệ thống 2 của não bộ con người. Ông chỉ ra những sai lầm phổ biến khi ta sử dụng Hệ thống 1 và cách cải thiện quyết định thông qua Hệ thống 2.”
Cách mà 2 hệ thống hoạt động trong một con người, khi được quan sát ở quy mô lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh tế và xã hội. 2 hệ thống này đại diện cho con người trong thế giới lý thuyết và thực tế. – PGS.TS Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT.
Cuốn sách này được phân thành năm phần.
PHẦN I: HAI HỆ THỐNG
Dưới đây là một số ví dụ về các hoạt động tự động của Hệ thống 1:
- Phát hiện một đối tượng ở xa hơn so với các đối tượng khác.
Hàng loạt hoạt động trí não trong danh sách trên diễn ra tự động mà không cần sự tập trung. Bạn không thể ngăn chặn việc hiểu những câu nói đơn giản bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc nhận biết âm thanh lạ bất ngờ, cũng như bạn không thể ngăn bản thân biết phép tính đơn giản 1+1= 2 hoặc tưởng tượng về những cánh đồng hoa Tulip rực rỡ tại Hà Lan. Khả năng của Hệ thống 1 còn bao gồm kỹ năng bẩm sinh của con người và các loài động vật khác. Chúng ta sinh ra với sự nhận thức về thế giới xung quanh, nhận biết đối tượng, hướng sự chú ý, tránh sự mất mát và cảm thấy sợ hãi trước những con rắn độc. Những hoạt động này trở nên tự động và nhanh chóng do chúng ta luyện tập thường xuyên. Hệ thống 1 cũng học cách kết nối các ý tưởng (ví dụ: “Thủ đô của Việt Nam là gì?”), cũng như học cách đọc và hiểu các sắc thái khác nhau trong các tình huống xã hội khác nhau. Kiến thức được lưu trữ trong bộ nhớ và chúng ta truy cập vào nó mà không cần phải cố gắng hoặc tập trung cao độ.
Hệ thống 1 hoạt động một cách tự động và nhanh chóng, với ít hoặc không cần sự cố gắng và kiểm soát.
Còn các hoạt động của Hệ thống 2 đa dạng nhưng chúng có một điểm chung: Chúng đòi hỏi sự chú ý và sẽ kết thúc khi bạn không còn tập trung nữa. Dưới đây là một số hoạt động thuộc Hệ thống 2:
- Tập trung vào diễn biến trận đấu bóng chày.
Trong mọi tình huống đó, bạn cần tập trung chú ý và hiệu quả thường kém, thậm chí là tệ hại nếu bạn không sẵn lòng hoặc sự chú ý của bạn bị chuyển hướng sang các chủ đề không thích hợp. Hệ thống 2 có khả năng điều chỉnh cách hoạt động của Hệ thống 1, bằng cách tự động ghi nhớ và sử dụng sự chú ý thường xuyên.
Cụm từ “tập trung chú ý” được sử dụng để chỉ khả năng: Bạn phải sử dụng sự chú ý tạm thời của mình, đổi lại bạn có thể dự đoán các hoạt động, và nếu cố gắng sử dụng sự chú ý quá mức, bạn sẽ thất bại. Đó chính là dấu hiệu của những hoạt động yêu cầu sự chú ý, chúng tương tác với nhau, và đó là lý do tại sao bạn không thể xử lý nhiều vấn đề phức tạp cùng một lúc. Bạn có thể lau nhà và đồng thời nói chuyện điện thoại với bạn bè, nhưng bạn không thể tính toán 11 nhân 97 trong khi cố lái xe.
Hệ thống 2 tập trung chú ý vào các hoạt động tư duy đòi hỏi nỗ lực, bao gồm các phép tính phức tạp. Cơ chế hoạt động của Hệ thống 2 thường liên quan đến các trải nghiệm cá nhân, lựa chọn và sự chú ý của chủ thể.
Theo quan điểm của tác giả về hai hệ thống,
Khi nghĩ về bản thân, chúng ta thường cảm thấy gần gũi với Hệ thống 2, là những người tỉnh táo và lý trí, có đức tin, luôn suy nghĩ thận trọng trong từng quyết định và lựa chọn. Hệ thống 2 luôn tự tin rằng nó là nguồn gốc của hành động, tuy nhiên, Hệ thống tự động 1 mới là “ người hùng” của câu chuyện tâm lý này. Tôi mô tả Hệ thống 1 như là những ấn tượng và cảm xúc tự nhiên ban đầu, là nguồn gốc chính của niềm tin và lựa chọn cẩn thận của hệ thống 2. Cơ chế tự động của Hệ thống 1 tạo ra những ý tưởng với những khía cạnh phức tạp kỳ diệu, nhưng Hệ thống 2 mới có khả năng cấu trúc lại những suy nghĩ đó theo từng bước một.
Chủ đề về sự tương tác giữa hai hệ thống luôn được đề cập đến trong cuốn sách này. Hệ thống thứ nhất hoạt động tự động, trong khi Hệ thống thứ hai thường hoạt động với sự thoải mái và ít nỗ lực hơn. Hệ thống thứ nhất liên tục gửi đi các tín hiệu gợi ý cho Hệ thống thứ hai, bao gồm ấn tượng, trực giác, sự chú ý và cảm xúc. Khi nhận ra những gợi ý này từ Hệ thống thứ nhất, Hệ thống thứ hai sẽ chuyển chúng thành niềm tin và thúc đẩy bản thân thực hiện các hành động tự động. Khi mọi thứ diễn ra suôn sẻ và được điều chỉnh tốt, Hệ thống thứ hai sẽ chấp nhận các gợi ý từ Hệ thống thứ nhất mà không có quá nhiều thay đổi hoặc thậm chí không thay đổi gì cả.
Mọi người đều có cảm giác cố gắng tập trung khi đọc một cuốn sách nhạt nhẽo. Đôi khi, bạn có thể đọc lại một đoạn văn vì bỗng nhiên không hiểu nó đang nói về điều gì. Mọi người đều biết cảm giác cố gắng tránh nhìn vào một cặp đôi lạ lùng đang ăn tối ngay bên cạnh trong một nhà hàng. Hoặc cảm giác đừng chửi rủa ai đó xuống địa ngục. Một trong những nhiệm vụ của Hệ thống thứ hai là vượt qua những thúc đẩy từ Hệ thống thứ nhất. Hệ thống thứ hai chịu trách nhiệm cho phần tự chủ của con người. Vì vậy, nó càng cần đến sự chú ý và nỗ lực.
Nếu có cơ hội chuyển cuốn sách này thành một bộ phim, Hệ thống thứ hai có lẽ sẽ chỉ đóng vai phụ, nhưng nó lại tin rằng mình là nhân vật chính. Trong bộ phim, điểm yếu của vai phụ - Hệ thống thứ hai là nó thường hoạt động dựa trên nỗ lực và một trong những đặc điểm nổi bật của nhân vật này là sự lười biếng. Nó chỉ đầu tư thêm nỗ lực khi không còn cách nào khác. Kết quả là, những suy nghĩ và hành động của Hệ thống thứ hai thường bị nhân vật chính (Hệ thống thứ nhất) chi phối. Tuy nhiên, có những nhiệm vụ quan trọng chỉ có Hệ thống thứ hai mới có thể thực hiện được, vì chúng đòi hỏi nỗ lực và tự kiểm soát mà Hệ thống thứ nhất không thể đảm nhận được.
Thường thì việc đi bộ và suy nghĩ là điều bình thường và thậm chí là dễ chịu. Tuy nhiên, khi hoạt động này đòi hỏi nhiều sự căng thẳng, nó sẽ là một thách thức lớn đối với nguồn lực có hạn của Hệ thống thứ hai. Ví dụ, khi bạn đang thảnh thơi đi dạo với một người bạn và bỗng nhiên bạn yêu cầu anh ta tính 23 nhân 45, anh ta có thể sẽ ngưng lại trong chốc lát. Việc buộc não phải làm việc tính toán một lượng lớn dữ liệu trong thời gian ngắn khi đang thư giãn thật sự là một thách thức.
Hệ thống thứ hai - Bận rộn và yếu đuối
Hiện nay, đã có một danh sách dài và đa dạng được tổng kết về những tình huống và nhiệm vụ được cho là có thể làm suy yếu sự tự chủ của con người. Tất cả đều chứa đựng những mâu thuẫn và ngược lại với nhu cầu tự nhiên của con người. Ví dụ:
- Tránh xa những con hổ
- Kiềm chế cảm xúc khi xem các bộ phim gay cấn, hồi hộp hoặc quá tình cảm.
- Đưa ra các lựa chọn gây tranh cãi.
- Cố gắng để lại ấn tượng với người khác.
- Phản ứng tử tế trước những hành động xấu của bạn đời.
Danh sách các chỉ dẫn suy yếu cũng rất đa dạng:
- Lập thực đơn ăn kiêng và tập thể dục.
- “Vung tay quá chán” trong một cơn điên mua sắm.
- Phản ứng quá mức khi bị khiêu khích.
- Thể hiện kém khi đối mặt với nhiệm vụ đòi hỏi tư duy và khi phải giải thích cần sự logic.
Tất cả những quá trình này khiến chúng ta cảm thấy mệt mỏi và không thoải mái. Khác với quá trình tư duy, sự suy yếu bản thân khiến chúng ta mất đi một phần động lực sau mỗi nhiệm vụ đòi hỏi sự kiểm soát. Có thể sau khi hoàn thành, bạn không muốn cố gắng trong những nhiệm vụ tiếp theo và nếu bị buộc phải làm, bạn vẫn có thể tiếp tục nhưng không được khá hơn chút nào.
Hệ thống thứ hai hay lười biếng
Hãy cố gắng xác định, càng sớm càng tốt, liệu lập luận này có logic không?
Hoa hồng là một loài hoa.
Một số loài hoa nhanh tàn.
Vì vậy, một số loài hoa hồng cũng nhanh tàn.
Dường như có lý, nhưng không phải.
Hầu hết sinh viên đại học khi được hỏi đều cho rằng luận điểm này có logic. Tuy nhiên, thực tế lại không phải vậy, bởi có thể có trường hợp hoa hồng không nằm trong số những loài hoa chóng tàn. Một câu trả lời có vẻ đúng đã hiện ra trong tâm trí bạn. Để tránh 'cái bẫy' này, đòi hỏi sự căng thẳng từ tâm trí, nghĩa là phải chống lại 'tiếng nói' trong đầu kêu gọi 'Đúng rồi, đúng rồi!' làm cho việc kiểm tra tính đúng đắn của vấn đề trở nên khó khăn hơn và gần như làm cho mọi người ngại suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề nào đó. Thí nghiệm này chỉ ra rằng, khi người ta tin vào một kết luận, họ thường tin vào các ý kiến ủng hộ kết luận đó, ngay cả khi chúng không có cơ sở.
Sức mạnh của hiệu ứng gợi mồi
Khi bạn nhìn thấy hoặc nghe từ ĂN, bạn thường sẽ nghĩ ngay đến SOUP thay vì SOAP. Và ngược lại, nếu bạn nhìn thấy từ TẮM, bạn sẽ nghĩ ngay đến SOAP chứ không phải SOUP. Đó chính là hiệu ứng gợi mồi, cách mà từ ĂN gợi mồi cho từ SOUP, từ TẮM gợi mồi cho từ SOAP. 'Hiệu ứng gợi mồi' tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau. Và không chỉ dừng lại ở việc gợi mở về súp, mà còn có hàng nghìn ý tưởng khác như đói, béo, ăn kiêng... Một ý tưởng nhỏ có thể lan tỏa ra hàng loạt ý tưởng tiếp theo như là việc ném một viên đá vào mặt hồ. Hiệu ứng gợi mồi có thể ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống.
Ví dụ, hầu hết chúng ta nghĩ rằng bầu cử là một quá trình được thực hiện một cách cân nhắc, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ yếu tố nào và phiếu bầu của chúng ta không thể bị chi phối bởi địa điểm bầu cử, nhưng thực tế lại là ngược lại. Một nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến bầu cử ở Arizona năm 2000 đã chỉ ra rằng tỷ lệ ủng hộ gây quỹ cho các trường học tăng đáng kể khi địa điểm bỏ phiếu được tổ chức tại trường học so với việc tổ chức tại một địa điểm khác gần đó. Một thí nghiệm khác cũng cho thấy việc trưng bày hình ảnh về các lớp học và trường học cũng tăng cơ hội ủng hộ các sáng kiến của nhà trường từ phía người bỏ phiếu. Hiệu ứng hình ảnh đối với phụ huynh và cử tri là khác nhau.
Tác động của ánh sáng lấp lánh
Thị hiếu yêu thích hoặc không thích mọi thứ liên quan đến một người, bao gồm cả những điều bạn không bao giờ trực tiếp quan sát, được gọi là “Hiệu ứng hào quang”. Đây là một cách gọi hay để mô tả sự chệch hướng phổ biến, đóng vai trò quan trọng trong cách chúng ta nhận biết về con người và tình huống. Đây là một trong những cách tái hiện một thế giới mà Hệ thống 1 hoạt động đơn giản hơn và kết nối nhiều hơn so với thực tế.
Bạn nghĩ gì về Ben và Alan khi đọc điều này:
Alan: thông minh – chăm chỉ - bốc đồng – khó chịu – cứng đầu – đố kỵ
Ben: đố kỵ - cứng đầu – khó chịu – bốc đồng – chăm chỉ - thông minh
Như hầu hết mọi người, bạn sẽ cảm thấy Alan quyến rũ hơn Ben rất nhiều. Có lẽ do nét tính cách “thông minh – chăm chỉ”? Hãy quan sát kỹ lưỡng hơn, có phải điều đó cũng được thể hiện trong tính cách của Ben không? Những đặc điểm tính cách đầu tiên trong danh sách thường làm thay đổi ý nghĩa của những đặc điểm tiếp theo. Sự cứng đầu của một người thông minh thường dễ được chấp nhận và thậm chí được tôn trọng hơn, nhưng sự thông minh kết hợp với sự cứng đầu có thể làm cho một người trở nên nguy hiểm hơn nhiều. Tuy nhiên, thứ tự xuất hiện cũng là một vấn đề, vì hiệu ứng hào quang có thể làm tăng sức ảnh hưởng của những ấn tượng đầu tiên, đôi khi khiến những thông tin phía sau trở nên vô nghĩa.
Bạn chỉ biết những gì bạn biết (WYSIATI)
Sự kết hợp giữa Hệ thống 1 tìm kiếm liên kết với Hệ thống 2 lười biếng khiến Hệ thống 2 thường xây dựng niềm tin dựa trên những ấn tượng thông thường do Hệ thống 1 tạo ra. Tuy nhiên, Hệ thống 2 có khả năng hệ thống hóa và cẩn trọng hơn khi tiếp cận chứng cứ, và thường có nhiều lựa chọn được đánh dấu trước khi đưa ra quyết định. Tuy nhiên, Hệ thống 1 thường ảnh hưởng nhiều hơn đến các quyết định đòi hỏi sự suy xét cẩn thận, và dữ liệu của nó không ngừng được thu thập. Cơ chế nhảy đến kết luận dựa trên dữ liệu cơ bản rất quan trọng trong việc lý giải tư duy trực giác, được gọi là WYSIATI (What you see is all there is – bạn chỉ biết những gì bạn biết).
WYSIATI giải thích tại sao chúng ta có thể suy nghĩ và xây dựng câu chuyện ý nghĩa chỉ từ ít thông tin trong thế giới phức tạp này. Thường, những câu chuyện này được tự nhiên kết nối với nhau để hỗ trợ cho hành động có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, WYSIATI cũng giải thích cho nhiều loại sai lầm khi phải đưa ra nhận định và quyết định.
- Tự tin quá mức: Khi áp dụng nguyên lý WYSIATI, chất lượng và số lượng bằng chứng có thể không có giá trị đối với một cá nhân tự tin. Sự tự tin của mỗi người thường phụ thuộc vào sức thuyết phục của câu chuyện họ kể từ những gì họ nhìn thấy, dù ít. Con người hiếm khi thừa nhận một khả năng có thể xảy ra, và điều này thể hiện sự thiếu phản biện trong lập luận của họ. Hơn nữa, hệ thống liên kết thường dừng lại khi tìm thấy một mối liên kết và ngăn chặn sự nghi ngờ và tính phản biện.
PHẦN II: TƯ DUY VÀ SAI LẦM
Phần này cập nhật những nghiên cứu về suy nghiệm và khám phá một vấn đề cơ bản: Tại sao con người khó khăn trong việc suy nghĩ dựa trên hiện thực thống kê? Chúng ta dễ dàng suy nghĩ liên tưởng, suy diễn ẩn, hoặc suy nguyên nhân – hệ quả, nhưng lại gặp khó khăn khi suy nghĩ dựa trên hiện thực thống kê, bởi suy nghĩ này đòi hỏi não bộ của chúng ta phải xử lý rất nhiều thông tin cùng một lúc, điều mà Hệ thống 1 không được thiết kế để làm.
PHẦN III: TƯ DUY TỰ TIN QUÁ MỨC
Những khó khăn trong việc suy nghĩ dựa trên hiện thực thống kê là nội dung của phần III này, trong đó mô tả các giới hạn của não bộ chúng ta như: Niềm tin quá mức vào những gì chúng ta cho là đúng và hiển nhiên, đó là sự bất lực của chúng ta trong việc nhận ra sự “vô tri” của bản thân ở mức cao nhất của quá trình nhận thức, và sự không chắc chắn về thế giới chúng ta đang sống. Chúng ta thường đánh giá cao sự hiểu biết của mình về thế giới, nhưng lại đánh giá thấp vai trò của sự may mắn trong mỗi sự kiện hàng ngày. Đây chính là tư duy tự tin quá mức, được ảo tưởng về giá trị của sự “nhận thức muộn” nuôi dưỡng. Cùng với những câu chuyện học hỏi từ Kahneman, chúng ta có thể tránh được sức cuốn hút của “nhận thức muộn” và “ảo tưởng về giá trị”.
PHẦN IV: CÁC SỰ LỰA CHỌN KHÁC BIỆT
Phần này tập trung vào việc thảo luận về các nguyên tắc cơ bản của Kinh tế học liên quan đến quá trình ra quyết định, với việc giả định về các yếu tố kinh tế và lý trí. Kahneman đã đề xuất quan điểm hiện tại về các khái niệm chính trong 'lý thuyết tưởng tượng' dựa trên một mô hình hai hệ thống, mà ông và đồng nghiệp Amos đã công bố vào năm 1979. Sau đó, ông chỉ ra một số sự lệch lạc trong sự lựa chọn của con người so với nguyên tắc của lý trí. Ông phải đối mặt với một xu hướng đáng tiếc thường gặp ở con người khi giải quyết các vấn đề, đó là sự phân chia các vấn đề và bị ảnh hưởng bởi 'hiệu ứng khung', trong đó quyết định được thực hiện dựa trên các yếu tố không hợp lý liên quan. Những quan sát như vậy, có thể dễ dàng được giải thích bằng Hệ thống 1, lại là một thách thức lớn đối với giả định rằng các yếu tố chuẩn trong Kinh tế học đều phản ánh lý trí và đã được ưa chuộng.
PHẦN V: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI CÁ NHÂN
Phần này mô tả các nghiên cứu mới đây mà tác giả muốn giới thiệu sự khác biệt giữa hai khía cạnh của cá nhân, một là khía cạnh kinh nghiệm và một là khía cạnh ghi nhớ, cả hai đều có quan tâm riêng biệt. Ví dụ, chúng ta có thể thấy rằng con người có hai loại trải nghiệm không dễ chịu. Một số trải nghiệm kéo dài trong thời gian, do đó chắc chắn chúng là những trải nghiệm tồi tệ hơn so với những trải nghiệm khác. Tuy nhiên, chức năng tự động của bộ nhớ - một tính năng của Hệ thống 1 - có những nguyên tắc, mà chúng ta có thể sử dụng để những kí ức tồi tệ được ghi nhớ tốt hơn. Sau này, khi con người chọn những kí ức để ghi nhớ, họ tự nhiên sẽ được hướng dẫn bởi sự ghi nhớ bản thân và từ đó (khía cạnh kinh nghiệm) kí ức không cần thiết được kích thích. Sự phân biệt giữa hai khía cạnh này được áp dụng để kiểm tra hành vi, trong đó chúng ta một lần nữa nhận thấy rằng điều làm cho khía cạnh kinh nghiệm hạnh phúc không phải là điều làm cho khía cạnh ghi nhớ hạnh phúc. Làm thế nào để hai khía cạnh này trong một cơ thể có thể đạt được hạnh phúc là một câu hỏi không dễ dàng, trong đó hành vi đúng đắn của phần lớn mọi người đã trở thành một chuẩn mực được công nhận là cách hành xử khách quan, và hầu hết các hành động đúng đắn được coi là tham chiếu chung để đánh giá hành vi của từng cá nhân riêng lẻ.
Dưới đây là một phần tóm tắt những điểm chính trong cuốn sách Tư duy Nhanh và Chậm. Hiểu rằng chúng không thể nào trình bày hết tất cả các nghiên cứu quan trọng của tác giả cũng như sự hài hước, thông minh của ông trong mỗi tình huống và ví dụ ông đưa ra, nhưng hy vọng rằng điều này sẽ là lý do bạn chọn cuốn sách để làm phong phú thêm “thế giới sách” của riêng mình.
Đánh giá chi tiết bởi Thu - MytourBook