
Osaka Naomi tại Wimbledon 2017 | |
Tên đầy đủ | Osaka Naomi |
---|---|
Quốc tịch | Nhật Bản |
Sinh | 16 tháng 10, 1997 (26 tuổi) Osaka, Nhật Bản |
Chiều cao | 1,78 m (5 ft 10 in) |
Tay thuận | Tay phải (cú trái 2 tay) |
Huấn luyện viên | Wim Fissette (2020–) |
Tiền thưởng | $13,492,479 |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 251–139 (64.36%) |
Số danh hiệu | 7 |
Thứ hạng cao nhất | No. 1 (28 tháng 1 năm 2019) |
Thứ hạng hiện tại | No. 12 (4 tháng 10 năm 2021) ) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | VĐ (2019,2021) |
Pháp mở rộng | V3 (2016, 2018, 2019) |
Wimbledon | V3 (2017, 2018) |
Mỹ Mở rộng | VĐ (2018, 2020) |
Các giải khác | |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 2–14 (12.5%) |
Số danh hiệu | 0 |
Thứ hạng cao nhất | 324 (3 tháng 4 năm 2017) |
Thành tích đánh đôi Gland Slam | |
Úc Mở rộng | V1 (2017) |
Pháp Mở rộng | V2 (2016) |
Wimbledon | V1 (2017) |
Mỹ Mở rộng | V1 (2016) |
Naomi Osaka (Tiếng Nhật:
Sinh ra tại Nhật Bản với cha là người Haiti và mẹ là người Nhật, Osaka đã sống ở Hoa Kỳ từ khi mới bốn tuổi. Cô nổi bật ở tuổi mười sáu khi đánh bại cựu vô địch US Open Samantha Stosur trong trận ra mắt WTA Tour tại Stanford Classic 2014. Hai năm sau, cô lọt vào trận chung kết WTA đầu tiên tại Pan Pacific Open 2016 ở Nhật Bản và vào top 50 bảng xếp hạng WTA. Osaka tạo dấu ấn mạnh mẽ trong quần vợt nữ năm 2018 khi giành danh hiệu WTA đầu tiên tại Indian Wells. Tháng 9 cùng năm, cô vô địch US Open, đánh bại nhà vô địch Grand Slam 23 lần Serena Williams trong trận chung kết để trở thành tay vợt Nhật Bản đầu tiên thắng một giải Grand Slam đơn. Năm sau, cô trở thành tay vợt số 1 thế giới đầu tiên từ Nhật Bản sau chiến thắng tại Australian Open 2019.
Tiểu sử
Naomi Osaka sinh ra ở Osaka, Nhật Bản, với cha là Leonard San François người Haiti và mẹ là Osaka Tamaki người Nhật. Cô có một chị gái, Mari, cũng là tay vợt chuyên nghiệp. Hai chị em đều mang họ mẹ là Osaka do các quy định về hôn nhân ở Nhật Bản. Bố mẹ Osaka gặp nhau khi cha cô đang du lịch Hokkaido khi còn là sinh viên tại New York.
Khi mới ba tuổi, Osaka cùng gia đình rời Nhật Bản để đến Valley Stream, New York, Long Island, Hoa Kỳ để sống cùng ông bà. Cha của Osaka được truyền cảm hứng để dạy hai cô con gái chơi quần vợt sau khi xem hai chị em nhà Williams thi đấu tại giải Pháp mở rộng 1999. Mặc dù ít kinh nghiệm trong quần vợt, ông học theo phương pháp huấn luyện của Richard Williams để biến các con gái mình thành tay vợt xuất sắc. Ông bắt đầu đào tạo Mari và Naomi khi họ định cư ở Hoa Kỳ. Vào năm 2006, gia đình Osaka chuyển đến Florida khi Naomi khoảng 8 hoặc 9 tuổi để có nhiều cơ hội tập luyện hơn. Naomi từng luyện tập tại sân công cộng Pembroke Pines và khi 15 tuổi, cô bắt đầu làm việc với Patrick Tauma tại học viện ISP. Cô tốt nghiệp trường tiểu học Elmont Alden Terrace và trường trung học Broward Virtual. Năm 2014, cô chuyển đến học viện Harold Solomon (Học viện Tennis SBT Florida) và sau đó là học viện quần vợt ProWorld.
Dù Osaka lớn lên ở Hoa Kỳ, cha mẹ cô quyết định cho hai chị em đại diện Nhật Bản khi thi đấu. Họ cho biết: 'Chúng tôi đã quyết định cho Osaka đại diện Nhật Bản từ khi con bé còn nhỏ. Con bé sinh ra ở Osaka và lớn lên trong môi trường văn hóa Nhật Bản và Haiti. Naomi và chị gái Mari luôn coi mình là người Nhật, đó là lý do duy nhất của chúng tôi. Quyết định này không phải vì lý do tài chính hay ảnh hưởng của một hiệp hội quốc gia nào.' Quyết định này có thể chịu ảnh hưởng một phần từ sự thiếu quan tâm của Hiệp Hội Quần Vợt Hoa Kỳ (USTA) khi Osaka còn trẻ. USTA sau đó mời Osaka đến trung tâm huấn luyện quốc gia ở Boca Raton, Florida khi cô 16 tuổi, nhưng cô đã từ chối.
Tiếng mẹ đẻ của Osaka là tiếng Anh. Sau khi chọn quốc tịch Nhật Bản, cô cũng bắt đầu học tiếng Nhật.
Sự nghiệp quần vợt
2014-2017: Khởi đầu sự nghiệp
Vào tháng 7 năm 2014, Osaka có lần đầu tiên tham dự giải WTA tại Stanford và tiến vào vòng hai.
Tại Australian Open 2016, Osaka lần đầu tiên vượt qua vòng loại để tham gia một giải Grand Slam. Sau khi đánh bại Donna Vekić và Elina Svitolina, cô tiến thẳng vào vòng ba. Tại Roland Garros, nhờ xếp hạng cao, cô không phải thi đấu vòng loại và tiếp tục duy trì phong độ tốt. Vào tháng 10 năm 2016, cô lọt vào chung kết giải WTA Tokyo (thua Caroline Wozniacki sau hai set) và đạt thứ hạng 40 trên bảng xếp hạng WTA.
2018: Vô địch US Open và Indian Wells, xếp thứ 4 thế giới
Trong năm 2018, Osaka bắt đầu tăng hạng lên vị trí 19 trước ngày 5 tháng 9. Kể từ đầu năm, cô đã được huấn luyện bởi Aleksander Bajin. Vào tháng 5 năm 2018, cô tiếp tục luyện tập tại Học viện quần vợt Evert ở Boca Raton, Florida, trong khi thi đấu cho Nhật Bản.
Sau khi vượt qua Kristína Kučová và hạt giống số 16 Elena Vesnina, Osaka lần đầu tiên vào vòng bốn của một giải Grand Slam khi đánh bại Ashleigh Barty ở vòng ba Australian Open 2018. Tuy nhiên, cô bị loại bởi Simona Halep ở vòng bốn.
Thi đấu như một bất ngờ tại giải quần vợt Dubai, Osaka đã đánh bại Kristina Mladenovic và Anett Kontaveit trước khi bị loại bởi Elina Svitolina ở tứ kết.
Tại BNP Paribas Open ở Indian Wells, cô đã có chiến thắng ấn tượng trước cựu số 1 thế giới Maria Sharapova ở vòng đầu tiên. Tiếp tục phong độ xuất sắc, cô lần lượt đánh bại hạt giống số 31 Agnieszka Radwańska và Sachia Vickery để vào vòng thứ tư, nơi cô vượt qua Maria Sakkari và Karolína Plíšková để có mặt ở trận bán kết đầu tiên. Tại đây, cô đánh bại số 1 thế giới Simona Halep để vào trận chung kết lớn nhất sự nghiệp. Osaka đã giành chiến thắng tại BNP Paribas Open sau khi đánh bại hạt giống số 20 Daria Kasatkina.
Vào tháng 3 năm 2018, Osaka đã có chiến thắng đáng nhớ trước thần tượng Serena Williams, cựu số 1 thế giới, tại vòng đầu tiên của Miami Open. Sau đó, cô thua ở vòng hai trước hạt giống số 4 Elina Svitolina. Osaka tiếp tục phong độ tốt từ năm 2017 tại French Open, tiến vào vòng ba trước khi thua hạt giống số 13 Madison Keys.
Trong mùa sân cỏ, Osaka vào đến bán kết Nottingham Open nhưng thua trước hạt giống Ashleigh Barty. Tại Wimbledon, cô được xếp hạt giống số 18 và lọt vào vòng ba, nơi bị đánh bại bởi hạt giống số 11 Angelique Kerber, người sau đó vô địch giải. Sau một chuỗi thua tại Washington, Rogers Cup và Cincinnati, Osaka trở lại mạnh mẽ tại US Open, đánh bại Laura Siegemund và Julia Glushko. Cô còn ghi chiến thắng 6-0, 6-0 trước Aliaksandra Sasnovich, một trong những chiến thắng ấn tượng nhất của cô. Tại vòng bốn, cô vượt qua hạt giống số 26 Aryna Sabalenka trong ba set. Tại tứ kết, cô đánh bại Lesia Tsurenko chỉ trong 58 phút, có được trận bán kết đầu tiên trong sự nghiệp. Cô tiếp tục thắng Madison Keys ở bán kết, trở thành tay vợt Nhật Bản đầu tiên vào chung kết Grand Slam, nơi cô đối đầu với Serena Williams để tranh danh hiệu.
2019: Vô địch Australian Open và trở thành số 1 thế giới
Osaka được xếp hạt giống số 4 tại Australian Open. Cô vượt qua Magda Linette và Tamara Zianšek để tiến vào vòng ba, nơi đối mặt với hạt giống số 28 Hsieh Su-wei. Sau khi thua set đầu tiên, Osaka đã lội ngược dòng và giành chiến thắng trong ba set. Ở vòng bốn, cô đánh bại hạt giống số 13 Anastasija Sevastova trong ba set để lọt vào tứ kết đầu tiên tại Melbourne, nơi cô tiếp tục thắng trước hạt giống số 6 Elina Svitolina. Chiến thắng 3 set trước hạt giống số 7 Karolína Plíšková giúp Osaka vào trận chung kết Grand Slam thứ hai liên tiếp, và cô giành chiến thắng trước hạt giống số 8 Petra Kvitová trong ba set để đăng quang lần thứ hai liên tiếp. Với thành tích này, Osaka trở thành tay vợt đầu tiên giành hai danh hiệu Grand Slam liên tiếp kể từ Serena Williams năm 2015. Kể từ ngày 28 tháng 1 năm 2019, cô đã trở thành số 1 thế giới của WTA và là tay vợt châu Á đầu tiên đạt được vị trí này. Sau giải đấu, cô chia tay huấn luyện viên Sascha Bajin.
Sau Australian Open, Osaka gặp khó khăn. Cô bị loại ở vòng bốn và vòng ba tại hai giải Premier Mandatory vào tháng 3, Indian Wells và Miami Open. Bắt đầu mùa giải sân đất nện, Osaka vào bán kết Stuttgart Open nhưng phải rút lui vì chấn thương bụng. Các kết quả tốt nhất của cô trong mùa này là hai trận tứ kết tại Madrid Open và Italia Open, trước khi lại rút lui vì chấn thương tay phải. Tại French Open, Osaka thua Kateřina Siniaková ở vòng ba. Trong mùa sân cỏ, cô thua ở vòng đầu tiên trước Yulia Putintseva ở cả hai giải đấu, bao gồm Wimbledon, dẫn đến việc mất vị trí số 1 thế giới vào tay Ashleigh Barty.
Trước US Open, Osaka vào tứ kết tại hai giải Premier 5 vào tháng 8, Canada Open và Cincinnati Open, nhưng bị đánh bại bởi Serena Williams và Sofia Kenin. Những màn trình diễn này giúp cô lấy lại vị trí số 1 thế giới và được xếp hạt giống số 1 tại US Open. Tuy nhiên, hành trình bảo vệ danh hiệu của cô kết thúc ở vòng bốn khi thua Belinda Bencic, người đã đánh bại cô lần thứ ba trong năm. Sau giải đấu, Osaka tụt xuống vị trí thứ 4 thế giới và đưa cha trở lại làm huấn luyện viên. Sự thay đổi này mang lại kết quả ngay lập tức, khi Osaka vô địch hai giải đấu tiếp theo. Đầu tiên, cô giành chiến thắng tại Premier 5 Pan Pacific Open ở quê nhà Osaka, đánh bại Anastasia Pavlyuchenkova trong trận chung kết. Hai tuần sau, cô lên ngôi tại Trung Quốc mở rộng, đánh bại đương kim vô địch US Open Bianca Andreescu ở tứ kết và số 1 thế giới Ashleigh Barty trong trận chung kết, giúp cô trở lại vị trí thứ 3 thế giới. Vào cuối năm, Osaka đủ điều kiện dự WTA Final năm thứ hai liên tiếp, nhưng đã rút lui sau khi đánh bại Petra Kvitová do chấn thương.
2020
Osaka khởi đầu mùa giải 2020 tại Brisbane, nơi cô đánh bại Maria Sakkari, Sofia Kenin và Kiki Bertens trước khi thua Karolína Plíšková. Tại Australian Open, Osaka đánh bại Marie Bouzkova và Zheng Saisai, nhưng bị Coco Gauff loại ở vòng ba.
Thống kê sự nghiệp
Trận chung kết Grand Slam
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|
Vô địch | 2018 | Mỹ Mở rộng | Cứng | Serena Williams | 6–2, 6–4 |
Vô địch | 2019 | Úc Mở rộng | Cứng | Petra Kvitová | 7–6, 5–7, 6–4 |
Đơn: 1 (0–1)
|
|
Kết quả | TT | Ngày | Giải đấu | Thể loại | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Á quân | 1. | 25 tháng 9 năm 2016 | Toray Pan Pacific Open, Tokyo, Nhật Bản | Premier | Cứng | Caroline Wozniacki | 5–7, 3–6 |
Giải WTA 125
Đơn: 1 (1 lần á quân)
Kết quả | TT | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|
Á quân | 1. | 15 Tháng 11 năm 2015 | Hua Hin Championships, Hua Hin, Thái Lan | Cứng | Yaroslava Shvedova | 4–6, 7–6, 4–6 |
Trận chung kết ITF
Đơn: 4 (0–4)
|
|
Kết quả | TT | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|
Á quân | 1. | 2 tháng 6 năm 2013 | El Paso, Hoa Kỳ | Cứng | Sanaz Marand | 4–6, 4–6 |
Á quân | 2. | 9 tháng 3 năm 2014 | Irapuato, Mexico | Cứng | Indy de Vroome | 6–3, 4–6, 1–6 |
Á quân | 3. | 3 tháng 5 năm 2015 | Gifu, Nhật Bản | Cứng | Zheng Saisai | 6–3, 5–7, 4–6 |
Á quân | 4. | 14 tháng 6 năm 2015 | Surbiton, Vương quốc Anh | Cỏ | Vitalia Diatchenko | 6–7, 0–6 |
Chú thích
Liên kết bên ngoài
- Osaka Naomi tại Hiệp hội quần vợt nữ
- Osaka Naomi trên trang của Liên đoàn quần vợt quốc tế
- Osaka Naomi tại Fed Cup
Tay vợt nữ số 1 thế giới của WTA |
---|
Các nhà vô địch đơn nữ Úc Mở rộng |
---|
Các nhà vô địch đơn nữ Mỹ Mở rộng |
---|
Giải thưởng | ||
---|---|---|
Tiền nhiệm: Daria Gavrilova |
WTA Newcomer of the Year 2016 |
Kế nhiệm: Đang giữ danh hiệu |