Một phần của loạt bài về |
Các nền văn hóa khảo cổ Việt Nam |
---|
Hậu kỳ Thời đại đồ đá cũ |
Văn hóa Tràng An (23.000 TCN - 1.000 TCN) Văn hóa Sơn Vi (20.000 - 12.000 TCN) Văn hóa Soi Nhụ (18.000 - 7.000 TCN) |
Thời đại đồ đá mới |
Văn hóa Hòa Bình (12.000 - 10.000 TCN) Văn hóa Bắc Sơn (10.000 - 8.000 TCN) Văn hóa Quỳnh Văn (8.000 - 6.000 TCN) Văn hóa Cái Bèo (7.000 - 5.000 TCN) Văn hóa Đa Bút (6.000 - 5.000 TCN) |
Thời đại đồ đồng đá |
Văn hóa Hạ Long (3.000 - 1.500 TCN) Văn hóa Phùng Nguyên (2.000 - 1.500 TCN) Văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc Văn hóa Tiền Sa Huỳnh (2.000 - 1.000 TCN) |
Trung kỳ thời đại đồ đồng |
Văn hóa Đồng Đậu (1.500 - 1.000 TCN) |
Hậu kỳ thời đại đồ đồng |
Văn hóa Gò Mun (1.000 - 600 TCN) |
Thời kỳ đồ sắt |
Văn hóa Sa Huỳnh (1.000 TCN - 200 CN) Văn hóa Đông Sơn (800 TCN - 200 TCN) Văn hóa Đồng Nai (500 TCN - 0) Văn hóa Óc Eo (1 - 630) |
Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ phát triển ở Nam Bộ Việt Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, liên quan đến đất nước và con người ở vùng châu thổ hạ lưu sông Mê Kông và có liên hệ sâu sắc với lịch sử Đông Nam Á cổ đại.
Tổng quan chung
Óc Eo là một khu gò đất trên cánh đồng phía đông nam núi Ba Thê (nay thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Đây là nơi đầu tiên khám phá ra các di chỉ quan trọng của nền văn minh này vào năm 1944.
Văn hóa Óc Eo là văn hóa bản địa liên quan chặt chẽ đến sự tồn tại của Vương quốc Phù Nam (扶南, Funan) – một đế quốc mạnh mẽ tại Đông Nam Á trong thế kỷ 4-6 trước Công nguyên. Phạm vi phân bố của nền văn hóa này lan rộng không chỉ ở Nam Bộ Việt Nam, mà còn lan sang Campuchia, Thái Lan, Myanmar và một phần Malaysia ngày nay. Tại Nam Bộ, nhiều di tích văn hóa Óc Eo đã được khai quật tại các tỉnh thành như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Tiền Giang, Long An, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai... Khu vực Óc Eo – Ba Thê được coi là trung tâm của nền văn hóa này.
Đặc điểm nổi bật
Về phương diện ẩm thực, cư dân Óc Eo chủ yếu sử dụng gạo làm thực phẩm chính. Có bằng chứng cho thấy vỏ trấu hoặc hạt gạo đã được tìm thấy ở nhiều di tích, cả ở vùng cao và vùng thấp. Nồi đất và cà ràng (kran) là những dụng cụ mà người Phù Nam sử dụng để nấu nướng. Cà ràng (kran) là nồi dùng cho bếp lò ba chân, là dụng cụ quen thuộc được sử dụng rộng rãi bởi những cư dân sống gần sông, biển, trên núi, hay thậm chí trên nhà sàn từ lâu. Một loại hiện vật đặc biệt thể hiện sự khéo léo của cư dân Óc Eo chính là các nắp đậy. Các loại nắp đậy làm từ đất sét được tìm thấy ở nhiều địa điểm, đặc biệt là loại nắp đậy có hình dáng lõm vào bên trong, được thiết kế để đậy chặt hơn và có núm cầm trên mặt lõm của nắp. Ngoài ra, những dụng cụ lưu trữ như bình, chai đất sét, lọ đất sét, hũ đất sét cũng chiếm một lượng lớn trong các di tích Óc Eo.
Về nơi cư trú, cư dân Óc Eo sinh sống trên những nhà sàn bằng gỗ ven hệ thống sông rạch tự nhiên và nhân tạo, mái lá hoặc ngói; hoặc xây dựng trên các gò, giồng cao để làm trung tâm sinh hoạt tinh thần, mở rộng khu vực xung quanh làm nơi cư trú, mở rộng địa bàn canh tác.
Để di chuyển thuận tiện trên môi trường nhiều sông ngòi kênh rạch, cư dân ở đây chủ yếu sử dụng thuyền. Trên đất liền họ di chuyển bằng voi, trâu, bò... Họ thường khắc hình ngựa, hình bò trên lá vàng, được tìm thấy tại các di tích như Đá Nổi, Gò Tháp, Gò Thành, Gò Xoài. Xương của trâu, bò và voi cũng được khai quật nhiều trong các di tích cư trú và kiến trúc.
Về trang phục, các tư liệu cổ Trung Quốc cho biết những nét cơ bản về trang phục của cư dân Óc Eo vào thời kỳ đó: phụ nữ mặc váy dài, phần trên để trần hoặc che kín; đàn ông mặc áo dài ngắn, phần trên thường để trần; cả nam và nữ đều đeo nhiều đồ trang sức, bùa chú...
Theo Lương Thư (Trung Quốc), phương thức chôn cất người chết của cư dân Phù Nam (扶南, Funan) bao gồm 4 phương pháp: hỏa táng (thiêu xác), thủy táng (nhả xác xuống sông, biển), điểu táng (đặt xác lên đài cao để chim rỉa xác) và thổ táng (mai táng huyệt đất). Những phương thức táng này cũng có mặt ở Lâm Ấp (Chăm Pa), Malaysia, Ấn Độ...
Hầu hết các mộ táng được khai quật từ thời kỳ Óc Eo là các mộ hỏa táng với hình dạng chung gồm một phần trung tâm được xây bằng gạch, đá. Ngoài ra, tro cốt của người chết thường được đặt trong các chum nhỏ chôn ở những nơi cao ráo. Những vật phẩm theo táng của người chết cho thấy cư dân cổ tin rằng thế giới bên kia có thể giống với xã hội hiện tại, vì vậy người chết cũng được trang bị bình, chum, dụng cụ thủ công, trang sức, vũ khí...
Tôn giáo
Bên cạnh các tôn giáo truyền thống, các tôn giáo Ấn Độ như Phật giáo và Hindu giáo (thường được gọi là Bà la môn giáo) đã nhanh chóng lan rộng trong khu vực này.
Đạo Hindu được đưa vào Đồng bằng sông Cửu Long từ đầu Công nguyên với ba vị thần đại diện là Vishnu, Shiva và Brahma. Ngoài ra, cư dân Óc Eo còn thờ các vị thần như Durga-Parati (vợ của Shiva), Lakshmi (vợ của Vishnu), và Thần Ganesha (con của Shiva)... Thần Hari – Hara ra đời vào thời kỳ này do sự kết hợp của Vishnu và Shiva để mang lại sức mạnh lớn hơn nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản (Visnu), cũng như trừng phạt kẻ ác trong xã hội (Siva)... Thần Surya là vị thần mặt trời quan trọng có khả năng sinh sức mạnh theo kinh Vệ Đà của Ấn Độ. Hình tượng các vị thần được tạo ra từ nhiều chất liệu như đá, đồng, thiếc, vàng và đất nung, cho thấy sự phổ biến của Hindu giáo tại hầu hết các di tích lịch sử.
Phật giáo cũng được đưa vào cùng thời điểm với Hindu giáo và có giai đoạn ảnh hưởng mạnh mẽ đến Hindu giáo. Một số tượng thần trong đền Hindu giáo đã được biến thành tượng Phật như tượng thần Vishnu được biến thành Đức Lạc, hay Bồ tát 4 tay (Avalokiteshvara), Bồ tát Di lặc 4 tay (Bodhisattva Maitreya)...
Thủ công nghiệp
Gốm được sử dụng trong tôn giáo ít nhưng rất đặc biệt và tinh tế, phản ánh quan niệm tôn giáo của từng dân tộc. Đồ gốm được dùng trong tôn giáo bao gồm bình kendi và kundika, chủ yếu để chứa sữa và nước linh thiêng. Cả hai bình này có nguồn gốc từ Ấn Độ, nhưng khác nhau về chiều dài của cổ, hình dáng và chức năng của vòi. Vòi của kundika ngắn, rộng ở phần đầu và được sử dụng để đổ nước vào bình, trong khi vòi của kendi thường cong và dài hơn, được dùng để đổ nước ra ngoài. Bình kundika được xem là tiền thân của bình kendi.
Vật liệu xây dựng như gạch, ngói, và diềm ngói. Ngói diềm là những miếng ngói phẳng với các rãnh song song, dùng để thoát nước. Diềm ngói và chóp ngói thường được sử dụng để trang trí trong kiến trúc tôn giáo.
Hàng loạt di chỉ từ Đồng Nai đến Kiên Giang được khai quật đã tìm thấy nhiều cổ vật như đá, mã não, thạch anh, thủy tinh... được chế tác thành vòng, nhẫn, bông tai, dây chuyền, hạt chuỗi, dùng làm đồ trang sức với đa dạng màu sắc, kiểu dáng và kích thước, chứng tỏ người dân Óc Eo có kỹ năng chế tác thủy tinh.
Cùng với nghề làm thủy tinh, nghề kim hoàn cũng phát triển mạnh mẽ. Kim loại thô được nấu chảy trong nồi, sau đó đổ vào khuôn để tạo thành các món trang sức như hoa tay, vòng, nhẫn,...
Bàn nghiền và chày nghiền là những công cụ thường được sử dụng bởi người dân cổ Óc Eo để nghiền hương liệu, tách hạt ngũ cốc và dát mỏng vàng.
Giao thương
Nhiều di vật khai quật tại Óc Eo bao gồm tiền tệ, con dấu và hàng hóa từ nhiều quốc gia như tượng đồng, gốm Ấn Độ; gương đồng từ thời Hậu Hán (năm 25–220), tượng Phật bằng đồng từ thời Bắc Ngụy (năm 386–557); và đồng tiền vàng của hoàng đế La Mã như Antoninus Pius (năm 138–161) và Marcus Aurelius (năm 161–180),... cho thấy Óc Eo là một cảng thị quan trọng nhất trong khu vực vào thời điểm đó. Với hệ thống kinh rạch và sông ngòi phong phú trong nội địa, hàng hóa từ Óc Eo có thể vận chuyển đến nhiều vùng thuộc Nam Bộ (Việt Nam), Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Malaysia,... Có nhiều loại đồng tiền Phù Nam bằng bạc, kẽm; có đồng được cắt đôi, cắt tư, cắt tám, cắt 16 để làm tiền lẻ để thuận tiện cho việc trao đổi và buôn bán, không chỉ tìm thấy ở Đồng bằng sông Cửu Long mà còn xuất hiện ở vùng ven biển của vịnh Thái Lan, Myanmar, và bán đảo Mã Lai. Điều này cho thấy đã có một mạng lưới thương nghiệp kết nối Óc Eo với Ấn Độ Dương qua đường thủy từ vịnh Thái Lan qua eo biển Kra (Mã Lai) và có thể cả bằng đường bộ nội địa.
- Phù Nam
- Óc Eo
- Gò Tháp
- Lịch sử Đông Nam Á
Ghi chú
Liên kết ngoài
- Hội thảo khoa học “Văn hóa Óc Eo - nhận thức và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích” Lưu trữ 2021-08-23 tại Wayback Machine
- Mở cửa phòng trưng bày chuyên đề văn hóa “Óc Eo - Phù Nam” và Khai mạc trưng bày chuyên đề “Cổ vật Việt Nam” tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Lưu trữ 2021-08-23 tại Wayback Machine
- Lễ khai mạc triển lãm “Di sản văn hóa Óc Eo” tại Hà Nội Lưu trữ 2021-08-23 tại Wayback Machine
- Triển lãm quốc tế Văn hóa Óc Eo, Việt Nam tại Hàn Quốc Lưu trữ 2021-08-23 tại Wayback Machine