
Văn minh lúa nước là một kiểu văn minh nông nghiệp, xuất hiện khoảng 13.000 năm trước tại châu Á, có thể bắt nguồn từ vùng sông Dương Tử và sau đó lan rộng xuống Đông Nam Á. Nền văn minh này đã phát triển các kỹ thuật trồng lúa nước, hệ thống thủy lợi, công cụ và vật nuôi chuyên dụng; đảm bảo thực phẩm dư thừa cho xã hội đông đúc và thúc đẩy sự ra đời của các nền văn minh khác. Chính sự phát triển của văn minh lúa nước đã tạo điều kiện cho sự hình thành của các nền văn hóa đương thời như Văn hóa Hà Mỗ Độ (dọc sông Dương Tử - Trung Quốc hiện nay), Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình (miền Bắc Việt Nam hiện nay), và các ý kiến khác cho rằng nền văn minh lúa nước chính là nguồn gốc hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư và các giá trị văn hóa phi vật thể, đặc biệt là văn hóa làng xã.
Chronology

Trước đây, các nhà nghiên cứu như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã cho rằng Đông Nam Á là nơi khởi đầu của nền nông nghiệp đa dạng nhất thế giới. Theo họ, từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa đã được truyền bá vào Trung Quốc và sau đó đến Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi trước đó chỉ quen với việc trồng lúa mạch.
Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại đã chỉ ra rằng nguồn gốc của lúa nước thực sự là vùng đồng bằng sông Dương Tử (Trung Quốc). Các bằng chứng di truyền, khảo cổ và ngôn ngữ cho thấy lúa được thuần hóa lần đầu tiên ở lưu vực sông Dương Tử. Nghiên cứu về các gen của cây lúa nước cho thấy tất cả các giống lúa hiện tại đều có nguồn gốc từ một loại lúa nước cổ. Nghiên cứu di truyền năm 2011 chứng minh rằng tất cả các giống lúa châu Á, bao gồm indica (lúa Ấn Độ) và japonica (lúa Nhật Bản), đều phát sinh từ một sự kiện thuần hóa duy nhất diễn ra khoảng 100 đến 8.200 năm trước ở Trung Quốc, từ giống lúa hoang Oryza rufipogon.

Những dấu vết của bữa ăn tiền sử với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, khoảng 13.000 năm trước, đã được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa phát hiện trong hang Diaotonghuan phía nam sông Trường Giang (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân ở đây đã thực hiện các thử nghiệm với giống lúa và phương pháp trồng trong một thời gian dài sau đó. Điều này được chứng minh qua sự gia tăng kích thước phytolith (phần thực vật hóa thạch chứa silica) trong các lớp trầm tích qua thời gian. Tin tức này đã được công bố trên tạp chí Science vào năm 1998. Các nghiên cứu về phytoliths cho thấy từ 9.000 năm trước, cư dân khu vực đã tiêu thụ nhiều lúa nước trồng hơn là lúa hoang. Những cư dân này cũng bắt đầu sản xuất đồ gốm thô bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ qua nhiều thế kỷ đã dẫn đến nghề trồng lúa lan rộng ra toàn bộ vùng nam sông Dương Tử. Di tích cổ thứ hai, khoảng 9.000 năm trước, là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương Tử. Hơn bốn mươi di tích lúa cổ đã được phát hiện ở vùng nam sông Trường Giang. Di tích Văn hóa Hà Mỗ Độ gần cửa biển nam Trường Giang cho thấy nền văn minh lúa nước ở đây đã đạt đến mức độ cao vào khoảng 7.000 năm trước, trước cả di tích làng trồng kê Bán Pha ở Bắc Trung Quốc.
Văn hóa Hà Mỗ Độ (5000 TCN - 4500 TCN) đã xây dựng những ngôi làng với hàng trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Người Hà Mỗ Độ đã trồng lúa nước, tiêu thụ cơm và để lại lớp rơm và trấu dày từ 25–50 cm, có nơi dày đến cả mét, trên diện tích 400 mét vuông. Đây có thể là lớp rác từ việc đập lúa. Di chỉ thực vật như củ ấu, củ năng, táo và di cốt động vật hoang như hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu... cho thấy khí hậu vùng nam sông Trường Giang lúc đó là nhiệt đới, rất phù hợp với việc canh tác lúa nước. Sau văn hóa Hà Mỗ Độ, nhiều nền văn hóa lúa nước khác đã hình thành dọc theo lưu vực sông Trường Giang khoảng 4.000 - 5.000 năm trước, như Lương Chử, Mã Gia Banh, Quinshanyang, Khuất Gia Lĩnh, Đào Tự, Songze, Dadunze.
Vào năm 2007, di chỉ của một thành phố cổ rộng hơn 2,9 km2, có niên đại trên 5.000 năm, đã được phát hiện tại khu vực trung tâm của di tích văn hóa Lương Chử (3.300 - 2.300 TCN). Tại đây, một kho lương thực với khả năng chứa khoảng 15 tấn gạo đã được tìm thấy. Các chuyên gia cho rằng từ vị trí và cấu trúc của thành cổ, có thể đã có những cung điện dành cho giới quý tộc. Đến năm 2017, các nhà khảo cổ đã phát hiện một hệ thống thủy lợi cổ xưa nhất thế giới với niên đại lên đến 5.100 năm. Công trình thủy lợi này, với quy mô khổng lồ và diện tích hơn 300.000 m2, được xây dựng bằng hoàng thổ dày tới 10,2 mét. Các cư dân cổ đại đã di dời khoảng 3,3 triệu mét khối đất để xây dựng công trình này, bao gồm nhiều đập, mương, rạch và đê điều để kiểm soát lũ và dự trữ nước cho mùa màng. Quy mô và kỹ thuật của công trình này là rất hiếm trên thế giới.
Từ vùng lưu vực sông Trường Giang, lúa nước dần được chuyển dần về phía bắc đến các vùng trồng kê trong văn hóa Đại Vấn Khẩu qua các hoạt động mua bán và trao đổi với các nền văn hóa Long Sơn, Mã Gia Banh, và Hà Mỗ Độ. Khoảng 4.000 đến 3.800 trước Công nguyên, lúa nước trở thành một loại cây trồng phụ trong các nền văn hóa Trung - Tạng ở miền bắc Trung Quốc. Dù không thay thế được kê do điều kiện môi trường khác biệt, lúa nước vẫn được trồng kèm với kê ở ranh giới phía nam của các vùng trồng kê. Ngược lại, kê cũng được đưa vào các khu vực trồng lúa.
Tại Việt Nam

Các nghiên cứu khảo cổ gần đây đã xác nhận sự hiện diện của con người tại Việt Nam từ thời kỳ Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hóa Hoà Bình - Bắc Sơn đã chứng minh sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể bao gồm cả nghệ thuật trồng lúa nước.
Các nhà khảo cổ đã phát hiện những hạt thóc hóa thạch trong lớp đất dưới khu khảo cổ thuộc Văn hóa Hòa Bình có niên đại khoảng 9.260-7.620 năm trước. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, niên đại thực của những hạt thóc này có thể muộn hơn nhiều so với ước tính ban đầu, chỉ khoảng 4.000 năm trước. Một nghiên cứu đa ngành với phân tích bộ gen cây lúa nước cho thấy lúa nước đã được đưa vào Đông Nam Á từ miền nam Trung Quốc sau một sự kiện lạnh toàn cầu (sự kiện 4,2k) khoảng 4.200 năm trước. Sự kiện này gây ra biến đổi khí hậu tại miền nam Trung Quốc, có thể dẫn đến mất mùa và khiến cư dân trồng lúa phải di cư sang các vùng khác, bao gồm Đông Nam Á, mang theo kỹ thuật trồng lúa nước.
Văn hóa Phùng Nguyên và Đông Sơn (có niên đại khoảng 4.000 năm) ở miền Bắc Việt Nam ngày nay có nhiều điểm tương đồng với nền Văn hóa Hà Mỗ Độ từ sông Dương Tử cách đây 7.000 năm. Các cư dân phía nam Trung Hoa khi đó có thể gần gũi hơn về chủng tộc và văn hóa với cư dân Bắc Việt Nam so với những người ở miền bắc Trung Hoa. Khuôn mặt làm từ sọ người trong văn hóa Hà Mỗ Độ trưng bày tại Viện Bảo tàng Hà Mỗ Độ cho thấy họ thuộc chủng Nam Mongoloid, gần với chủng người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau.
Điều kiện đồng bằng sông Hồng rất lý tưởng cho việc trồng lúa hoang và sau này là lúa nước. Người Việt thuộc cộng đồng chủng Nam Mongoloid là một phần của nền văn minh lúa nước.
Điều kiện tự nhiên
Môi trường
- Lượng mưa hàng năm dao động từ 2.000 đến 2.500 mm,
- Trong giai đoạn tăng trưởng, cây lúa cần khoảng 125 mm mưa mỗi tháng,
- Thời điểm thu hoạch cần nhiều ánh nắng, ruộng khô càng tốt,
- Nhiệt độ lý tưởng là từ 21 đến 27 °C,
- Cư dân cần có kinh nghiệm trong việc quản lý tưới tiêu (thủy lợi)
Yếu tố khác
- Khu vực canh tác cần phải bằng phẳng để duy trì mực nước từ 100 đến 150 mm, giúp cây lúa phát triển và kết hạt tốt.
- Do đó, các đồng bằng và lưu vực sông ở miền nhiệt đới nhiều mưa như đồng bằng sông Hồng, lưu vực sông Dương Tử là môi trường lý tưởng cho lúa nước phát triển.
- Thời vụ trồng lúa cũng rất quan trọng, điều này dẫn đến việc phát triển lịch nông nghiệp, phân chia ngày, tháng và các mùa trong năm của cư dân trồng lúa.
- Chọn giống lúa phù hợp là yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất và chất lượng, điều này được các cư dân trồng lúa đặc biệt chú trọng.
Nông cụ

Tại các di chỉ khảo cổ, chúng ta tìm thấy bộ sưu tập phong phú các lưỡi cày bằng đồng từ thời kỳ Đông Sơn, với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các công cụ bằng sắt và đồng, chuyển sang các vật dụng trang trí và tinh xảo hơn.
Ở giai đoạn đầu của Văn hóa Phùng Nguyên, công cụ bằng đá vẫn chiếm ưu thế, nền kinh tế còn mang tính nguyên thủy. Đến thời kỳ Đồng Đậu, Gò Mun và đặc biệt là Đông Sơn, nhiều công cụ bằng đồng như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi thuổng, xẻng, lưỡi rìu được phát triển và ngày càng phong phú. Trong số khoảng 200 chiếc lưỡi cày bằng đồng, có 4 kiểu dáng chính: lưỡi cày hình tam giác phân bố dọc sông Thao; lưỡi cày hình bầu dục, hình thoi ở đồng bằng Bắc Bộ; lưỡi cày hình thoi tập trung ở sông Mã; và lưỡi cày hình xẻng vai ngang ở làng Vạc. Các loại cuốc, rìu và lưỡi liềm đồng cũng được phát hiện, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, phổ biến khắp lãnh thổ từ trung du đến đồng bằng và ven biển.
Việc phát minh ra lưỡi cày và áp dụng công cụ này trong nông nghiệp đã thay thế các công cụ cũ như cuốc, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Sự ra đời của nhiều loại công cụ sản xuất bằng đồng chứng tỏ sự tiến bộ trong kỹ thuật canh tác của cư dân thời kỳ này. Nông nghiệp dùng cày trở thành nguồn cung cấp thực phẩm chính, đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động khác trong xã hội.
Các di cốt trâu, bò tìm thấy trong các di tích văn hóa Đông Sơn cùng với hình ảnh bò khắc trên trống đồng cho thấy cư dân thời Hùng Vương đã sử dụng trâu, bò làm sức kéo trong nông nghiệp. Di tích thóc, gạo và công cụ gặt hái như liềm, dao gặt cũng được phát hiện ở các di chỉ thuộc văn hóa Đông Sơn, chẳng hạn như tại làng Vạc, nơi tìm thấy nhiều hạt thóc và vỏ trấu trong các nồi gốm và thạp đồng. Nhiều tài liệu cổ như Di vật chí của Dương Phù, Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên, và Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn cũng ghi chép về nghề nông trồng lúa nước thời Hùng Vương, chứng tỏ sự phổ biến và phát triển mạnh mẽ của ngành nghề này.
Thủy lợi

Nước đóng vai trò thiết yếu trong việc trồng lúa nước, hình thành nên nền văn minh lúa nước. Nguyên thủy, người ta có thể đã nhận thấy sự khác biệt lớn giữa lúa nương, loại lúa trồng trên đất khô và lúa nước trồng ở các vùng ngập nước của các con sông lớn. Lúa nước chỉ phát triển tốt trong điều kiện khí hậu phù hợp, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới nơi có các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã cung cấp phù sa mới hàng năm trong mùa lũ.
Tuy nhiên, lượng nước cần thiết cho việc trồng lúa phải được cân bằng, không quá nhiều cũng không quá ít. Để kiểm soát và đảm bảo nguồn nước này, các cư dân trồng lúa nước đã phải phát triển các hệ thống thủy lợi để duy trì mức nước lý tưởng cho sự sinh trưởng của cây lúa.
Hệ thống thủy lợi đơn giản nhất là việc đắp bờ ruộng và dẫn nước qua các kênh vào ruộng, đồng thời điều chỉnh lượng nước qua độ cao của lối thoát nước. Hệ thống đê điều lớn hai bên sông lớn chính là công trình thủy lợi quan trọng của cư dân trồng lúa nước, giúp kiểm soát nước tràn vào ruộng và phòng chống lũ lụt hàng năm.
Đánh giá
Trong một tác phẩm xuất bản năm 1952, Sauer đã viết: “Đối với cái nôi của nền nông nghiệp đầu tiên, tôi khẳng định đó chính là Đông Nam Á. Khu vực này đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết về vật lý, hóa học hữu cơ, khí hậu ôn hòa với hai mùa gió mùa rõ rệt, mùa mưa ẩm ướt và mùa khô ráo, sông nước thuận tiện cho việc đánh cá, và đây cũng là trung tâm giao thương quan trọng của cả đường biển lẫn đường bộ ở thế giới cổ đại. Không nơi nào có vị trí thuận lợi và đầy đủ yếu tố cho sự phát triển của nền văn minh kết hợp giữa nông nghiệp và ngư nghiệp hơn thế. Tôi sẽ chứng minh rằng ngay từ thời kỳ đầu, nông nghiệp đã liên kết chặt chẽ với ngư nghiệp; và rằng ở đây, việc thuần hóa động vật và phát triển cây trồng đã diễn ra sớm và phát triển mạnh mẽ, làm cho nơi đây trở thành trung tâm chính của thế giới về kỹ thuật trồng cây và cải thiện thực vật để tăng cường sản lượng rau quả. Tôi đồng ý với quan điểm rằng loài người đã học cách trồng cây trước khi biết cách gieo hạt giống.”
Nhiều nhà khoa học khác không đồng ý rằng Đông Nam Á là trung tâm khởi nguồn của nông nghiệp lúa nước, mà cho rằng nó chỉ là một trung tâm phụ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Nam Trung Hoa mới là trung tâm chính của nền nông nghiệp lúa nước, cùng với các trung tâm khác ở Trung Đông và Ấn Độ. Các nghiên cứu di truyền học gần đây đã khẳng định rằng cây lúa nước được trồng đầu tiên ở khu vực ven sông Trường Giang (miền nam Trung Quốc hiện nay).
Với đặc điểm địa lý, khí hậu và chủng tộc, vùng châu thổ sông Hồng có sự liên hệ gần gũi với các nền văn minh tiền sử ở Nam Trung Hoa. Sự kết nối về văn hóa, thương mại, và di cư giữa các khu vực này trong một khoảng thời gian dài vài nghìn năm là hoàn toàn có thể xảy ra.
Hiện tại, vẫn còn nhiều tranh cãi trong giới khoa học về các trung tâm khởi nguồn của nông nghiệp. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu như Burkill và Sauer rất tự tin khi đưa ra bằng chứng rằng Đông Á chính là nguồn gốc của nhiều loại khoai và củ. Những sản phẩm này sau đó đã được phân tán ra các đảo trên Thái Bình Dương, châu Phi và châu Mỹ qua các con đường hàng hải.
Chú thích
Các liên kết bên ngoài
- Khám phá nguồn gốc dân tộc Việt Nam
- Những nền văn minh cổ và nguồn gốc người Việt
- Tóm tắt lịch sử Việt Nam
- Ngành trồng lúa của Việt Nam Lưu trữ 2006-11-13 tại Wayback Machine