
Bồ Tát (chữ Hán: 菩薩), đầy đủ là Bồ Đề Tát Đóa (chữ Hán: 菩提薩埵, tiếng Phạn: 𑀩𑁄𑀥𑀺𑀲𑀢𑁆𑀢𑁆𑀯 bodhisattva), dịch nghĩa là Người có lòng từ bi (chữ Hán: 覺有情) hoặc Đại Sĩ (chữ Hán: 大士), là những người trong Tam Thập Tam Thiên thế giới, giúp đỡ chúng sinh bằng lòng từ bi của Bồ Tát (Bồ Tát Maha Tát). Bồ Tát tu hành ba mươi pháp Bát Nhã Địa (theo quan điểm của Phật giáo Thượng Tọa bộ) hoặc sáu pháp Bát Nhã Địa (theo quan điểm của phần lớn Phật giáo Đại Thừa). Trong Kinh Văn Nikaya, Bồ Tát (pa. Bodhisatta) là thuật ngữ dùng để chỉ Phật Thích-ca Mâu-ni (hay Phật Gotama) trước khi giác ngộ, trong khi trong văn bản Đại Thừa, Bồ Tát được dùng để chỉ bất kỳ chúng sinh nào đã phát tâm Bồ Đề (sa. bodhicitta) và sẽ thành Phật như Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Phổ Hiền...
Việc tu tập
Bồ Tát mong muốn tu tập theo con đường của Bồ Tát để trở thành Phật, bất kể là theo Nam Tông hay Bắc Tông, đều cần có đại nguyện rộng lớn vì lợi ích của chúng sinh (được một vị Phật chứng nhận) và hiểu biết sâu rộng về Phật pháp như Tứ Diệu Đế, Duyên Khởi, Nhân Quả...
Phật giáo Nam Tông
Theo quan niệm của Phật giáo Nam Tông, để đạt được sự chứng nhận là một A-la-hán, chúng sinh cần phải đáp ứng tám điều kiện: (1) là con người, (2) là nam giới, (3) đủ điều kiện để chứng quả A-la-hán trong kiếp hiện tại, (4) gặp gỡ Phật, (5) tu sĩ tin vào thuyết Nghiệp Báo hoặc là một tỳ-kheo trong thời đại có Phật xuất hiện, (6) có khả năng chứng các tầng thiền định, (7) hành động từ bi (có thể hy sinh để bảo vệ Đức Phật), (8) có ý nguyện hoàn thành mục tiêu dù phải đối mặt với những khó khăn. Trước đây, tu sĩ Sumedha (tiền thân của Phật) đã được Phật Dipamkara chứng nhận nhờ tám điều kiện này. Bồ Tát mong muốn chứng quả thành Phật vì lòng từ bi cao cả muốn cứu giúp chúng sinh: 'Nếu đạt được giác ngộ hoàn toàn (là một vị Phật), Ta có thể cùng với các thiên thần qua sông cứu độ thế gian!'
Bất kỳ Bồ Tát nào mong muốn tu tập thành Phật đều cần phải thành tựu ba mươi pháp Bát Nhã Mật, trong đó bao gồm thập độ: bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, chân thật, quyết tâm, bác ái, xả và ba cấp độ: hạ, trung và thượng.
Phật giáo Đại Thừa

Theo quan điểm của Bắc Tông, một chúng sinh khi được Phật thụ ký chỉ cần thỏa mãn điều kiện là phát tâm Vô thượng vì lợi ích của chúng sinh. Bồ Tát lựa chọn chúng sinh làm sự nghiệp của mình. Quan điểm về Bồ Tát trong Đại thừa linh động hơn so với Thượng Tọa bộ. Một vị Bồ Tát phát đại nguyện và cam kết hoàn thành đại nguyện đó trước hoặc sau khi chứng quả thành Phật trong khi Phật giáo Thượng Tọa bộ chỉ có Phật Toàn giác mới có khả năng cứu độ chúng sinh. Ví dụ như Bồ Tát Địa Tạng Vương cam kết: 'Địa ngục chưa trống không, tôi cam kết chưa đắc quả thành Phật. Chúng sinh đều được cứu độ hết, lúc đó tôi mới chứng quả Bồ Đề.', vậy Bồ Tát Địa Tạng chỉ thành Phật khi hoàn thành hết đại nguyện đó; trong khi Phật A-di-đà đã phát 48 đại nguyện khi còn là Bồ Tát và Ngài hoàn thành đại nguyện ấy sau khi chứng quả Phật.
Trong Đại thừa Phật giáo, hình ảnh của Bồ Tát tương tự như A-la-hán, trong đó A-la-hán thường bị hiểu nhầm là tập trung chủ yếu vào sự giải thoát cho bản thân, với xu hướng ít làm lợi ích nhiều cho chúng sinh, trong khi Bồ Tát có nguyện lực cao hơn nhiều, không chỉ tu bổ trí tuệ bản thân mà còn mang đến lợi ích cho mọi chúng sinh trên con đường giác ngộ.
Thực tế, khái niệm Bồ Tát đã được tìm thấy trong các kinh điển Phật giáo nguyên thủy, đặc biệt là khi nói về các tiền thân của Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Bản Sinh Kinh). Trong Kinh văn Đại thừa, khái niệm này được phát triển thêm: khi nói về Bồ Tát, người ta coi đó là tiền thân của các vị Phật trong tương lai. Đại thừa phân loại Bồ Tát thành hai loại: Bồ Tát sống trên Trái Đất và Bồ Tát siêu việt. Các vị Bồ Tát sống trên Trái Đất là những người đầy lòng từ bi, giúp đỡ chúng sinh và hướng về quả thành Phật.
Bồ Tát siêu việt là những người đã thực hành các hạnh Ba-la-mật ở mức độ rất cao nhưng chưa nhập Niết-bàn, hoàn toàn không còn thối lui trên con đường thành Phật, có khả năng tự chủ trong Luân hồi và xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau để cứu độ chúng sinh. Đây là các vị được Phật tử tôn thờ và đảnh lễ, thường là các vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Quan Âm Bồ Tát, Bồ Tát Đại Thế Chí, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi và Bồ Tát Phổ Hiền, cùng với Bồ Tát Địa Tạng. Ngũ vị Bồ Tát này gọi là Ngũ Hiền.
Theo quan điểm của Đại thừa Phật giáo, hình ảnh Bồ Tát tương tự như A-la-hán, trong đó A-la-hán thường bị hiểu nhầm là tập trung chủ yếu vào sự giải thoát cho bản thân, với xu hướng ít làm lợi cho chúng sinh, còn Bồ Tát thì có sức mạnh nguyện cao hơn nhiều, không chỉ tu bổ trí tuệ bản thân mà còn mang đến lợi ích cho tất cả chúng sinh trên con đường giác ngộ.
Chư vị Bồ Tát là những vị như Bồ Tát Hư Không Tạng, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Đại Thế Chí, và Bồ Tát Di-lặc.
- Nổi tiếng trong số các vị Bồ Tát là Bồ Tát Hư Không Tạng, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Đại Thế Chí, và Bồ Tát Di-lặc.
Ngoài những vị Bồ Tát này, còn có vô số các vị Bồ Tát khác trên các hằng hà và thế giới khác nhau.
Hình ảnh của các vị Bồ Tát trong văn hóa Việt Nam
