
Vịt Xiêm Bướu Mũi | |
---|---|
Một con vịt xiêm rừng hoang dã | |
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Aves |
Bộ (ordo) | Anseriformes |
Họ (familia) | Anatidae |
Chi (genus) | Cairina |
Loài (species) | C. moschata |
Danh pháp hai phần | |
Cairina moschata (Linnaeus, 1758) |
Ngan bướu mũi hay vịt xiêm là tên gọi chung của một loài chim thuộc họ Vịt với danh pháp khoa học Cairina moschata. Ở Việt Nam, loài này còn được gọi là ngan ta, ngan nội, ngan dé, hay ngan cỏ. Loài ngan này có nguồn gốc từ México và các vùng Trung và Nam Mỹ. Một quần thể hoang dã nhỏ cũng tồn tại ở miền nam Hoa Kỳ, tại lưu vực Rio Grande ở Texas. Loài này đã được thuần hóa nhưng một số vẫn sống hoang dã tại các công viên ở Hoa Kỳ và Canada. Mặc dù là chim nhiệt đới, ngan bướu mũi có khả năng thích nghi với điều kiện băng tuyết, chịu đựng được nhiệt độ xuống tới -12 °C (10 °F) mà không gặp vấn đề sức khỏe.
Ngan bướu mũi hoang thường có bộ lông màu đen và xanh đen với cánh trắng, chân có các vuốt dài, đuôi rộng và phẳng. Ngan trống có chiều dài khoảng 86 cm và cân nặng từ 2,1-3,2 kg, lớn và nặng hơn so với ngan cái với kích thước khoảng 64 cm và cân nặng từ 0,97-1,3 kg. Điểm đặc biệt nhất của ngan bướu mũi là mặt đỏ không có lông, có mào dễ nhận biết ở gần mũi, với một u nổi lên như bướu và chòm lông mào hơi dựng đứng.
Ngan con thường có bộ lông tơ màu vàng với các đốm nâu trên đuôi và cánh. Một số giống ngan thuần hóa có lông đầu sẫm màu và mắt xanh, trong khi những con khác có lông đầu màu nâu nhạt với các đốm sẫm màu trên gáy. Chúng rất nhanh nhẹn và có thể tự sống độc lập sau khi sinh.
Ngan bướu mũi hay ngan cỏ, vịt xiêm hoang dã chính là nguồn gốc của tất cả các giống ngan nhà hiện nay.
Ghi chép lịch sử

Ngan bướu mũi đã được các dân tộc bản địa ở châu Mỹ thuần hóa trước khi Christopher Columbus đặt chân đến Tân thế giới. Theo một số giả thuyết, những con ngan bướu mũi đầu tiên đã được các nhà thám hiểm châu Âu mang về châu Âu vào khoảng thế kỷ 16. Công ty Muscovy, hay còn gọi là Công ty Muscovite, bắt đầu xuất khẩu ngan bướu mũi sang châu Âu vào khoảng sau năm 1550.
Hành vi và thói quen


Loài chim này không di cư và thường sinh sống ở các đầm lầy trong rừng, hồ nước, hoặc suối. Vào ban đêm, chúng thường đậu trên cây để nghỉ ngơi.
Giống như vịt cổ xanh, ngan bướu mũi không hình thành cặp đôi ổn định và thường giao phối với các loài chim họ hàng gần để tạo ra con cái không có khả năng sinh sản. Việc lai ghép giữa ngan bướu mũi và vịt nhà khá phổ biến, tạo ra con lai có tốc độ tăng trưởng nhanh và kích thước lớn, kết hợp ưu điểm của cả hai loài. Ngan bướu mũi có thể giao phối cả dưới nước lẫn trên cạn.
Ngan mái thường đẻ từ 8 đến 16 trứng màu trắng trong các lỗ hổng trên cây và ấp trứng trong khoảng 35 ngày. Mỗi ngày, ngan mái rời tổ từ 20 phút đến 1,5 giờ để tìm thức ăn, uống nước, và tắm rửa. Sau khi trứng nở, cần khoảng 24 giờ để tất cả ngan con chui ra khỏi vỏ. Trong các khu vực ôn đới, ngan con thường ở cùng ngan mẹ, đặc biệt vào ban đêm, trong khoảng 10-12 tuần để giữ ấm.
Thông thường, ngan trống cũng ở gần đàn con trong vài tuần đầu, cùng chúng bơi lội để tìm kiếm thức ăn và bảo vệ chúng.
Trong mùa sinh sản, ngan bướu mũi có thể trở nên khá hung dữ. Ngan trống thường xuyên tranh đấu với nhau để giành thức ăn, lãnh thổ và bạn tình. Ngan mái ít khi xảy ra xung đột hơn. Ngan trưởng thành đôi khi còn mổ ngan con nếu chúng ăn chung tại cùng một chỗ.
Thức ăn
Chế độ ăn của ngan bướu mũi chủ yếu gồm các loại thực vật mà chúng tìm được trong cỏ hoặc vùng nước nông, cùng với một số động vật nhỏ và côn trùng.
Phân tích trình tự DNA
Trước đây, ngan bướu mũi được xếp vào nhóm 'vịt đậu cây', nhưng hiện nay đã được chuyển sang phân họ Vịt (Anatinae). Dù vậy, phân tích mtDNA của cytochrome b và NADH dehydrogenase cho thấy nó có thể gần gũi hơn với uyên ương (Aix) và nên được phân loại trong phân họ Vịt khoang (Tadorninae). Đồng thời, loài còn lại trong chi Cairina, ngan cánh trắng, dường như thuộc về một chi khác không cùng phân họ.
Thuần hóa

Ngan bướu mũi đã được thuần hóa từ nhiều thế kỷ trước. Thịt của chúng được ưa chuộng hơn so với phần lớn thịt từ các giống vịt nhà (có thể là hậu duệ của vịt cổ xanh) vì ít mỡ hơn và có độ nạc tương tự như thịt bê, không giống như thịt vịt thường chứa nhiều mỡ.
Các giống ngan thuần hóa thường có bộ lông khác biệt so với ngan hoang dã. Những con ngan lông trắng rất phù hợp cho việc sản xuất thịt. Ngan mái nặng khoảng 2–5 kg (5-10 pao) và ngan trống nặng khoảng 5–8 kg (10-17 pao).
Ngan thuần hóa có khả năng sinh sản lên đến 3 lần mỗi năm. Một số con ngan đã trở lại hoang dã và sinh đẻ ở những khu vực không phải bản địa của chúng, chẳng hạn như Tây Âu và Hoa Kỳ.
Ngan có khả năng lai với vịt nhà để tạo ra con lai vô sinh, còn gọi là vịt Mulard. Quá trình lai ghép này được thực hiện bằng thụ tinh tự nhiên hoặc nhân tạo với tỷ lệ khoảng 40-60% trứng nở thành vịt Mulard được nuôi để lấy thịt. Lai ghép giữa vịt cổ xanh và ngan mái cũng khả thi, nhưng con lai thường không đạt yêu cầu về thịt hoặc trứng. Những con lai này thường được sử dụng để sản xuất gan béo (foie gras).
Tại Israel, việc lai ghép ngan với vịt cổ xanh đã được thực hiện để sản xuất các sản phẩm ăn kiêng kosher. Đây là một chủ đề tranh luận trong cộng đồng Do Thái suốt hơn 150 năm qua.
Vịt Mulard nuôi lấy thịt có nhiều ưu điểm như phát triển nhanh hơn so với vịt và ngan, thời gian nuôi ngắn hơn, thịt có chất lượng tốt hơn và ít mỡ hơn. Khối lượng giữa ngan trống và ngan mái ít chênh lệch hơn so với ngan thuần chủng, nơi ngan mái chỉ nặng khoảng 60% so với ngan trống trong cùng điều kiện nuôi.
Liên kết ngoài
- Ngan tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- BirdLife International (2004). Cairina moschata. Sách đỏ 2006. IUCN 2006. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2006.
- Muscovy duck tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Donkin R. A. (1989): Muscovy duck, Cairina moschata domestica: Origins, Dispersal, and Associated Aspects of the Geography of Domestication. A.A. Balkema Publishers, B.R. Rotterdam.
- Hilty Steven L. (2003): Birds of Venezuela. Helm Identification Guides, London. ISBN 0-7136-6418-5
- Stiles F. Gary, Skutch Alexander Frank (1989): A guide to the birds of Costa Rica. Comistock, Ithaca. ISBN 0-8014-9600-4
- Zivotofsky Rabbi Ari Z., Amar Zohar (2003): The Halachic Tale of Three American Birds: Turkey, Prairie Chicken, and Muscovy Duck. The Journal of Halacha and Contemporary Society. Rabbi Jacob Joseph School Press, Staten Island, NY.