
Lệ Thủy | |
---|---|
Biệt danh | Tiếng hát chuông ngân Cô Đào ngoại hạng |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Trần Thị Lệ Thủy |
Ngày sinh | 20 tháng 5, 1948 (76 tuổi) |
Nơi sinh | Bình Minh, Vĩnh Long, Liên bang Đông Dương |
Giới tính | nữ |
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp |
|
Gia đình | |
Chồng | Nguyễn Đình Trúc (cưới 1973) |
Con cái | Dương Đình Trí |
Lĩnh vực | Cải lương |
Danh hiệu | Nghệ sĩ Ưu tú (1993) Nghệ sĩ Nhân dân (2011) |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Dòng nhạc | Tân cổ, vọng cổ |
Hãng đĩa | Hãng đĩa Việt Nam |
Hợp tác với |
|
Ca khúc |
|
Sự nghiệp sân khấu | |
Năm hoạt động | 1960 – nay |
Thành viên của | Trâm Vàng, Kim Chung 5, 2-84,... |
Vai diễn | Kim Anh trong Đời cô Lựu |
Giải thưởng | |
Giải Thanh Tâm 1964 Huy chương vàng triển vọng | |
Giải Kim Khánh 1974 | |
Giải Mai Vàng (2008, 2009) Nữ diễn viên Cải lương | |
Lệ Thủy (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1948) là một trong những nghệ sĩ cải lương nổi tiếng của Việt Nam. Bà được biết đến với danh hiệu 'Cô đào ngoại hạng' của sân khấu cải lương miền Nam. Lệ Thủy đã có nhiều vai diễn thành công, đặc biệt là trong sự nghiệp hợp tác với Nghệ sĩ Minh Vương.
Sự nghiệp
Trước năm 1975
Bà sinh ra với tên là Dương Thị Lệ Thủy, sau này thay đổi thành Trần Thị Lệ Thủy. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Đông Thành, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, Lệ Thủy là chị cả trong một gia đình có 8 chị em.
Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn từ khi còn nhỏ, Lệ Thủy đã cùng gia đình lên Sài Gòn kiếm sống. Lúc 10 tuổi, khi làm việc tại ban văn nghệ xóm bên, nghệ sĩ Tư Long nghe được bà hát vọng cổ và mời bà tham gia học ca cổ với thầy Năm Truyền tại Khánh Hội, nơi bà làm thợ hớt tóc. Sau đó, Lệ Thủy được gửi đi học cải lương bài bản ở miền Nam và miền Bắc với nhạc sĩ Tám Đen. Trải qua nhiều gian nan với sự bệnh tật của em nhỏ và nợ nần gia đình, vì không có giấy khai sinh nên bà không thể tiếp tục học hành và phải làm việc sớm để giúp gia đình, bà quyết định làm việc tại gánh Trâm Vàng (Biên Hòa, Đồng Nai) để giảm bớt gánh nặng cho ba mẹ.
Với bài hát cổ Cô gái bán đèn hoa giấy, Lệ Thủy bắt đầu từ vai diễn nhỏ trên sân khấu. Lúc 13 tuổi, bà đã tham gia vai diễn nhỏ trên đoàn Trâm Vàng. Khi 14 tuổi, Lệ Thủy đã có các vai đào nhì. Sau đó, bà chuyển sang Công ty Kim Chung của ông bầu Trần Viết Long, một đại bang có 7 đoàn hát. Tại đây, Lệ Thủy được soạn giả Ngọc Văn nhận làm con nuôi và đóng từ vai phụ cho đến vai chính.
Sau khi tạo dấu ấn với vai diễn đầu tiên, ông bầu Trần Viết Long thành lập đoàn Kim Chung 3 và Lệ Thủy chuyển sang đó diễn cùng với nghệ sĩ Thanh Hải trong vở 'Bẽ bàng duyên mới' của soạn giả Ngọc Văn. Từ đó, tên tuổi của Lệ Thủy bắt đầu nổi lên, trở thành cô đào chính lúc bà mới tròn 15 tuổi.
Năm 1964, Lệ Thủy giành được Huy chương Vàng triển vọng giải Thanh Tâm cùng với nghệ sĩ Thanh Sang, một giải thưởng danh giá nhất trong làng cải lương vào thời điểm đó.
Tiếp đó, Lệ Thủy gia nhập đoàn Kim Chung 5, nơi bà hợp tác với Minh Phụng tạo thành cặp đào – kép gắn bó, được báo chí thời bấy giờ gọi là cặp 'Bão biển' vì thành công với nhiều vở như Xin một lần yêu nhau, Đêm lạnh chùa hoang, Kiếp nào có yêu nhau, ...
Sau năm 1975
Năm 1975, Lệ Thủy liên kết với Đoàn văn công TP.HCM qua các vở diễn như Cây sầu riêng nở hoa, Âm thanh sóng Rạch Gầm, Khi bình minh trở lại.
Tháng 2 năm 1984, Lệ Thủy được vinh dự tham gia cùng Đoàn nghệ sĩ lưu diễn Tây Âu với các nghệ sĩ Bạch Tuyết, Diệp Lang, Ngọc Giàu, Minh Vương,... qua các vở diễn như Đời của cô Lựu, Câu thơ yên ngựa...
Những năm đầu thập niên 1990, Lệ Thủy chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực video cải lương. Một số vở cải lương đã được quay video như Đêm lạnh chùa hoang, Tây Thi, Máu nhuộm sân chùa...
Sân khấu cải lương đang gặp nhiều khó khăn. Bà cùng với Diệp Lang và Minh Vương đã thành lập chương trình Những dấu ấn vĩnh cửu tại Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang, biểu diễn các vở tuồng kinh điển như Giấc mộng dạ xuân, Tình mẫu tử...
Năm 2008, chương trình bắt đầu với tên gọi 'Sân khấu vàng', thuộc Nhà hát Trần Hữu Trang, mục đích tập hợp các nghệ sĩ biểu diễn và quyên góp doanh thu cho xây dựng nhà tình thương. Cho đến nay, 'Sân khấu vàng', dưới sự sáng lập của Lệ Thủy và Minh Vương, đã mang đến nhiều vở diễn như Sông dài, Lá sầu riêng, Một ông hai bà, Đêm lạnh chùa hoang, ... và đã trao tặng hơn 30 căn nhà cho các gia đình khó khăn.
Hiện nay, bà vẫn thường xuyên biểu diễn tại Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang và tham gia vào các chương trình biểu diễn và show diễn ở nhiều tỉnh thành.
Năm 2020, Lệ Thủy xuất hiện bất ngờ trong chương trình Ký ức vui vẻ mùa 3, làm các khách mời ngỡ ngàng. Thường ít khi tham gia chương trình, nhưng khi được con trai Dương Đình Trí khuyên khích, bà đã đồng ý.
Danh hiệu và giải thưởng
- Giải Thanh Tâm (năm 1964) cùng với Thanh Sang, Lệ Thủy là nữ nghệ sĩ trẻ thứ nhì đoạt giải này sau 10 lần tổ chức. Ngọc Giàu là nghệ sĩ đoạt giải Thanh Tâm trẻ tuổi nhất, lúc 15 tuổi.
- Giải Kim Khánh (1974).
- Giải A1 Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc (1980).
- Nghệ sĩ được yêu thích nhất năm 1989, với 5849 phiếu bầu chọn từ độc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
- Danh ca vọng cổ được yêu thích nhất năm 1990, hạng 2 (sau Minh Vương) do báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
- Nghệ sĩ được yêu thích nhất năm 1990, hạng 4 với 2664 phiếu bầu chọn từ độc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
- Giải Đôi nam – nữ diễn viên cải lương được yêu thích nhất năm 1992 (cùng Minh Vương), với 7993 phiếu bầu chọn từ báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
- Nghệ sĩ đóng Video cải lương được yêu thích nhất năm 1992, hạng 2 trong top 10 (xếp sau Vũ Linh) với 4286 phiếu bầu chọn từ độc giả báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
- Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú đợt 3 năm 1993.
- Kỷ lục Guinness Việt Nam 2008 cho Đôi bạn diễn lâu năm và ưng ý nhất (cùng Minh Vương).
- Giải Mai vàng cho hạng mục Nữ diễn viên cải lương được yêu thích nhất do báo Người lao động tổ chức vào năm 2008 và 2009.
- Danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt 7 năm 2012.
- Giải thưởng truyền hình HTV Awards 2013 cho Nữ nghệ sĩ cải lương được yêu thích nhất.
Gia đình
Năm 1973, Lệ Thủy kết hôn với ông Dương Đình Trúc và có ba người con. Con trai thứ hai của bà, sau khi tốt nghiệp đại học ở Úc, đã trở về Việt Nam và trở thành ca sĩ với nghệ danh Dương Đình Trí. Vào năm 2009, Dương Đình Trí đã tổ chức liveshow Bước chân hai thế hệ nhân dịp sinh nhật lần thứ 61 của mẹ.
Nhận xét
Soạn giả Viễn Châu nhận xét rằng: 'Lệ Thủy có một giọng ca hiếm có trong làng cổ nhạc, với chất giọng kim pha thổ, từng được báo giới Sài Gòn xưa tôn vinh là giọng ca chuông ngân'. Năm 1964, khi Viễn Châu kết hợp tân nhạc và cổ nhạc để tạo nên bản tân cổ giao duyên, ông đã lựa chọn giọng ca của Lệ Thủy để thể hiện thử nghiệm này với bài hát Chàng là ai.
Diễp Lang nhận xét rằng Lệ Thủy là 'cô đào hàng đầu' của sân khấu cải lương.
Các tác phẩm tân cổ nổi bật
- Anh hãy về đi (Tân nhạc: Ngân Trang – Sang Đông; cổ nhạc: Thế Châu)
- Áo mới Cà Mau (Nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: NSND Viễn Châu)
- Bạch Thu Hà (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Bánh bông lan (Tác giả: Quế Chi – Viết Chung)
- Bìm bịp kêu (Tác giả: Loan Thảo)
- Biên giới về khuya (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Bông bí vàng (Tân nhạc: NSƯT Bắc Sơn; cổ nhạc: Dương Đình Trí)
- Bức tranh hòa bình (Tân nhạc: Hoài Linh; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Căn nhà màu tím (Tân nhạc: Hoài Linh; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Cánh thiệp đầu xuân (Tân hạc: Lê Dinh – Minh Kỳ; cổ nhạc: Hoàng Song Việt)
- Cau Hà Châu têm trầu Xuân Mỹ (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Cha ơi (Sáng tác: Dương Đình Trí)
- Chàng là ai? (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Chiều lên bản Thượng (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Chuyến tàu hoàng hôn (Nhạc: Hoài Linh – Minh Kỳ; lời vọng cổ: Loan Thảo)
- Chuyện tình nàng Buram (Tân nhạc: Ngân Giang; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Chuyến xe cuối tuần (Tác giả: Viễn Sơn)
- Cô bán đèn hoa giấy (Tác giả: Quy Sắc)
- Cô gái bán sầu riêng (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Cô gái Đồ Long (Tân nhạc: Nguyễn Văn Đông; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
- Cô hàng chè tươi (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Con gái của mẹ (Tân nhạc: Giao Tiên; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Cơn mê tình ái (Tân nhạc: Tuấn Hải; cổ nhạc: Trung Hiếu)
- Còn tìm đâu nữa
- Đêm tiễn đưa (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Đêm trao kỷ niệm (Tân nhạc: NS Hùng Cường; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Dòng sông quê em (Tân nhạc: Trương Quang Lục; cổ nhạc: Huyền Nhung)
- Đường về hai thôn
- Duyên quê (Tân nhạc: Hoàng Thi Thơ; lời vọng cổ: Loan Thảo)
- Duyên tình
- Em bé đá
- Em bé đánh giày (Tác giả: Thu An)
- Em thương người nghệ sĩ
- Ga chiều
- Gặp lại cố nhân
- Giấc ngủ đầu nôi
- Hái hoa
- Hành trình trên đất phù sa (Tân nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Dương Đình Trí)
- Hát về sông Bé
- Hoa trinh nữ
- Hương cau quê ngoại
- Khổ tâm
- Lá sầu riêng (Nhạc: Hoàng Cầm – Nguyễn Chi; lời vọng cổ: Viễn Châu)
- Lá trầu xanh (Tác giả: Viễn Châu)
- Lan và Điệp (Sáng tác: Viễn Châu)
- Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài
- Lý chim quyên (Sáng tác: Loan Thảo)
- Lý ngựa ô (Sáng tác: Loan Thảo)
- Mất nhau rồi
- Mẹ tôi (Tân nhạc: Nhị Hà; cổ nhạc: Đình Trí)
- Mơ hoa (Nhạc: Hoàng Giác; lời vọng cổ: NSƯT Xuân Hỷ)
- Mưa trên phố Huế (Tân nhạc: Minh Kỳ – Tôn Nữ Thụy Khương; cổ nhạc: Viễn Châu)
- Nấu bánh đêm xuân (Sáng tác: Quy Sắc)
- Ngày em về thăm quê tôi
- Ngợi ca quê hương em (Nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Đình Trí)
- Nhất kiếm bá vương
- Quê hương (Thơ: Đỗ Trung Quân; nhạc: Giáp Văn Thạch; lời vọng cổ: Phan Văn Thanh)
- Sương lạnh chiều đông (Tân nhạc: Mạnh Phát; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Tấm ảnh không hồn
- Thành phố buồn
- Thương hoài ngàn năm (Sáng tác: Dương Đình Trí)
- Thương màu áo lam (Tân nhạc: Vũ Ngọc Toản; cổ nhạc: Bạch Tuyết)
- Thương nhau lý tơ hồng (Nhạc: Trương Quang Tuấn; lời vọng cổ: Viễn Châu)
- Tiền và lá
- Tình ca quê hương (Nhạc: Việt Lang; lời vọng cổ: Bạch Tuyết)
- Tình đẹp mùa chôm chôm
- Tình xuân (Tác giả: Hoàng Song Việt)
- Trái tim Đồ Chiểu
- Trăng tàn trên hè phố
- Trên dòng sông Hậu
- Ước nguyện đầu xuân
- Về chung một mái nhà (Nhạc: Xuân Tiên – Y Vân; lời vọng cổ: Nguyễn Thiên Đặng)
- Vĩnh biệt (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
- Xe hoa cách biệt
- Xin gọi nhau là cố nhân
- Xuân đẹp làm sao (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Dương Đình Trí)
- ...
Ngoài ra, còn có các bài tân nhạc như
- Miền Tây quê tôi (Cao Minh Thu)
- Nỗi buồn mẹ tôi (Nhạc: Minh Vy)
- Hồn quê
- Thương lắm quê tôi
- Tết miền Tây (Nhạc: Cao Minh Thu)
Những vai diễn nổi bật trong sự nghiệp
- Nàng Áo cưới trước cổng chùa (vai Xuân Tự)
- Cây sầu riêng khoe bông (vai Hạnh)
- Cô gái Đồ Long (vai Chu Chỉ Nhược)
- Dạ Xoa hoàng hậu (vai Chung Vô Diệm)
- Đêm lạnh chùa hoang (vai Hồ Bảo Xuyên)
- Dốc sương mù (vai Xuyên Đảo Phương Tử)
- Đời cô Lựu (vai Kim Anh)
- Hàn Mặc Tử (vai Mai Đình)
- Hoa Mộc Lan (vai Hoa Mộc Lan)
- Kiếp nào có yêu nhau (vai Quế Minh)
- Lôi vũ (vai Lỗ Tứ Phượng)
- Lỡ bước sang ngang (vai Cẩm Nhung)
- Máu nhuộm sân chùa (vai Bạch Thiên Nga)
- Mưa rừng (vai K'Lai)
- Mùa xuân ngủ trong đêm (vai Bạch Thiên Hương)
- Người tình trên chiến trận (vai A Khắc Thiên Kiều)
- Nửa đời hương phấn (vai Diệu)
- Tái sanh duyên (vai Mạnh Lệ Quân)
- Tây Thi gái nước Việt (vai Tây Thi)
- Tiêu Anh Phụng (vai Công chúa)
- Tô Ánh Nguyệt (vai Nguyệt)
- Trắng hoa mai (vai Thiên Kiều)
- Trúng độc đắc (vai Tý)
- Xin một lần yêu nhau (vai Hồ Như Thủy)
Liên kết bên ngoài
Giải Mai Vàng cho Nữ diễn viên sân khấu | |||||
---|---|---|---|---|---|
1995–2009 |
| ||||
2010–nay |
|