Mỹ thuật có thể hiểu đơn giản là 'nghệ thuật của cái đẹp' ('mỹ' trong tiếng Hán-Việt có nghĩa là 'đẹp'). Từ này thường chỉ các loại hình nghệ thuật tạo hình như: Hội họa, Đồ họa, Điêu khắc, Kiến trúc. Theo một góc nhìn khác, từ 'mỹ thuật' (đẹp + nghệ thuật) chỉ lĩnh vực văn hóa (vật thể) do con người sáng tạo nên. Ví dụ: vẻ đẹp của một bức tranh hay giá trị thẩm mỹ của một công trình kiến trúc.
Khái niệm hàn lâm
Thưởng thức cái đẹp có nhiều mức độ, phụ thuộc vào sự hiểu biết, gu thẩm mỹ và sở thích cá nhân của từng người. Vì vậy, khái niệm về mỹ thuật cũng không có một chuẩn mực cố định. Tuy nhiên, một tác phẩm được coi là có giá trị mỹ thuật tốt thì ít nhiều phải mang tính chất kinh viện, hàn lâm.
Theo từ điển mỹ học của Étienne Souriau - 1990, tiêu chuẩn mỹ thuật mang tính kinh viện bao gồm: sự nhạy cảm, khả năng gợi cảm xúc mạnh mẽ cho người xem; diễn đạt tốt không gian và thời gian trong tác phẩm; mức độ thể hiện đạt đến một trong các loại hình mỹ học. Ví dụ: qua ngôn ngữ tạo hình, tác giả truyền tải thành công một triết lý sâu sắc, dù các hình tượng trong tranh có thể mang tính trừu tượng hoặc tượng trưng. Mỹ thuật là một loại hình nghệ thuật có ngôn ngữ riêng, để học hay hiểu đúng về môn này, cần nắm bắt ngôn ngữ của nó.
Khái niệm mở rộng
Chúng ta cũng thường thấy thuật ngữ 'mỹ thuật' xuất hiện trên sân khấu và trong đời sống hàng ngày. Từ 'mỹ thuật' còn được sử dụng để phân biệt các lĩnh vực lớn của hội họa: mỹ thuật ứng dụng, mỹ thuật công nghiệp, mỹ thuật trang trí...; mỗi ngành có đặc thù riêng về kỹ thuật thể hiện và giá trị sử dụng. Trên thế giới và tại Việt Nam, những người hoạt động trong lĩnh vực này thường chỉ công nhận khái niệm mỹ thuật theo nghĩa hàn lâm và phân biệt rõ ràng giữa mỹ thuật với thủ công mỹ nghệ và mỹ thuật ứng dụng. Nói một cách đơn giản: mỹ thuật là sự kết hợp của đường nét mà con người tự quy ước với nhau theo cảm nhận, sử dụng để biểu đạt thế giới thực tại một cách gián tiếp qua chất liệu nào đó theo cách mà mỗi người cho là đẹp.
Lĩnh vực
Mĩ thuật bao gồm nhiều lĩnh vực nghệ thuật thị giác khác nhau như sau:
- Hội họa: nghệ thuật sáng tạo trên mặt phẳng hai chiều bằng những phương pháp trực tiếp. Các tác phẩm hội họa mang tính độc đáo và được xem là phần quan trọng trong lĩnh vực mĩ thuật.
- Đồ họa: là nghệ thuật hình thành hình ảnh trên mặt phẳng hai chiều thông qua các kỹ thuật in ấn, từ đó cho ra nhiều bản sao của tác phẩm.
- Điêu khắc: là nghệ thuật tạo ra hình khối trong không gian ba chiều (tượng tròn) hoặc hai chiều (chạm khắc, phù điêu).
Đây là khái niệm theo góc nhìn học thuật, được xem là nền tảng cơ bản nhất để đánh giá các tác phẩm mĩ thuật [1].
Theo nghĩa rộng, bất kỳ hình thức nghệ thuật nào thuộc thị giác cũng có thể được xem là mĩ thuật. Đặc biệt, các xu hướng mĩ thuật đương đại xuất hiện từ thập niên 1960 bao gồm:
- Nghệ thuật Sắp đặt (Installation art)
- Nghệ thuật Trình diễn (Performance art)
- Nghệ thuật Hình thể (Body art)
- Nghệ thuật Đại chúng (Popart)
- và nhiều loại hình nghệ thuật khác.
Lưu ý rằng các thuật ngữ về nghệ thuật thị giác vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn trong tiếng Việt.
- Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật Phổ thông, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003
- Mỹ học
- Phong trào nghệ thuật
- Nghệ thuật tạo hình
- Hội họa
- In ấn đồ họa
- Điêu khắc
- Mỹ thuật ứng dụng
- Nhiếp ảnh
- Các hình thức mỹ thuật đương đại
- Thủ công mỹ nghệ