Trong lịch sử văn hóa nghệ thuật Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Khuyến chiếm một vị trí quan trọng. Ông được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại của Việt Nam, những tác phẩm của ông mang đậm dấu ấn văn hóa, tâm hồn Việt Nam, và được biểu đạt bằng ngôn ngữ sâu sắc, giản dị và đẹp đẽ. Trong số đó, không thể không kể đến bài thơ Khóc Dương Khuê.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê không phải lúc nào cũng hoàn hảo. Mặc dù họ cùng nhau học đại học, sau đó đỗ tiến sĩ và phục vụ cho triều đình, nhưng sau năm 1884, khi nước Việt Nam rơi vào tay Pháp, Dương Khuê không có được sự nghiệp như Nguyễn Khuyến. Không được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng, Dương Khuê tiếp tục phục vụ cho triều đình Pháp cho đến khi qua đời vào năm 1902.
Tuy nhiên, cái chết đột ngột của Dương Khuê gây ra một cú sốc lớn cho Nguyễn Khuyến. Lúc đó, Nguyễn Khuyến đã nhận ra ý nghĩa quý báu của mối quan hệ bạn bè, và ông đã phải đối diện với sự mất mát đau đớn. Từ sâu thẳm trong tâm trí, ông thốt lên những lời than thở:
Dương đã ra đi, ra đi rồi,
Mây che phủ, lòng buồn nhức nhối.
Hai dòng thơ trên ít chứa đựng văn chương hay ngữ nghĩa, đặc biệt là dòng thứ nhất. Chúng chỉ thể hiện nỗi đau, nỗi đau chân thành, tự nhiên, và chân thành. Hai từ 'ra đi' dân dã và tự nhiên, như từ lời nói của một người dân thường nào đó. Trong bối cảnh xã hội ưa chuộng sự cao lãnh, ta nhận thấy sự giản dị được nhà thơ đặt một tầm quan trọng nhất định. Khi nói đến cái chết, ông không sử dụng từ 'chết'. Người ta không biết sự việc đã xảy ra thế nào rồi! 'Ra đi... ra đi rồi'! Đó là tất cả! Đúng vậy! Một kẻ quý tộc xưa kia khi vô tình làm rơi mất viên ngọc quý giá nhất trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ thốt lên đau đớn như thế. Không có nỗi đau thật sự, làm sao có thể khóc một tiếng khóc chân thành như thế được.
Nhưng với nỗi đau, Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của người là khóc với chính mình, làm sao có thể khóc thật lớn như thế được. Tâm hồn giản dị, ông không thích sự ồn ào. Ông muốn ngồi một mình, đối diện với quá khứ, nhớ lại tình bạn, nhớ lại những gì đã từng có giữa hai người. Bao kỷ niệm đã qua. Từ những ngày xưa xa xôi:
Nhớ từ thuở học trường cũ,
Ánh sáng bình minh soi đường ta bên nhau,
Tình bạn trường tồn, từ quá khứ đến hiện tại,
Khi gặp gỡ, có lẽ là duyên số của trời cao
Đó là kỷ niệm của hai người khi đầu tiên gặp nhau trong kỳ thi Đại học và cùng đỗ. Nguyễn Khuyến từ Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê từ Vân Đình, Hà Đông, họ chưa từng quen biết trước đó. Tuy nhiên, dường như số mệnh đã sắp đặt, tình bạn đã nảy nở từ đây. Sự bình dị và thân mật của Nguyễn Khuyến được thể hiện qua những từ ngữ như “sớm hôm”, “tôi bác”, và “cùng nhau”... Nhà thơ cũng miêu tả cảm xúc đầu tiên của mình về người bạn: một tình bạn chân thành, “tình bạn từ quá khứ đến hiện tại'.
Kể lại những kỷ niệm khác với sự chân thành và chân thành:
Cũng đã từng chơi với nhau nơi chốn xa lạ,
Tiếng nước suối vang vọng qua dãy núi,
Có những lúc leo trèo qua từng đỉnh núi,
Thú vui làm say lòng con người trong những buổi chiều dài.
Kỷ niệm của hai người bạn thật sự đa dạng và sâu sắc. Họ đã trải qua những khoảnh khắc vui vẻ, chứng tỏ họ có sự đồng cảm với nhau, có khả năng thưởng thức và chia sẻ niềm vui của cuộc sống du dương và mạo hiểm. Nhớ lại những khoảnh khắc đó, tâm hồn của nhà thơ vẫn cảm thấy xúc động bởi tiếng suối vang vọng qua dãy núi ở nơi xa lạ. Ông như đang sống lại những giây phút tuyệt vời khi leo trèo qua từng ngọn núi, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người có thể hỏi: một nhà thơ như Nguyễn Khuyến cũng đi hát ả đào à? Điều đó không quá lạ! Hát ả đào là một thú vui phổ biến trong xã hội phong kiến. Dù có người lợi dụng thú vui này (nhưng trên đời này không thiếu những điều tốt đẹp bị lợi dụng). Tuy nhiên, với đa số những người biết ơn giá trị của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, đó là nơi thư giãn tâm hồn sau những ngày làm việc căng thẳng, cũng là nơi để tận hưởng cái đẹp của âm nhạc, lời ca.
Tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là một ví dụ xuất sắc về sự tri âm tri kỉ, với sự hòa hợp và tương trợ:
Cũng đã từng uống rượu cùng nhau,
Chén quỳnh nhấp nhô trong không khí xuân,
Đã trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm trong cuộc đời.
Khi nhắc đến việc cùng bạn uống rượu, từ 'nháp” mà nhà thơ sử dụng rất chính xác và tinh tế, bởi đây là cách thưởng thức rượu của người uống vì niềm vui, không phải kiểu uống của những người say sưa. Nhà thơ đã tự miêu tả về khả năng uống rượu của mình một lần:
Rượu thì thơm ngon, cũng không phải dạng vừa
Chỉ mấy chén đã say lỳ.
(Thu ẩm)
Chén uống rượu của người xưa thường rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Khi nhà thơ nói về việc “nhấp”, ý chỉ việc uống từng hớp nhỏ, như thể chỉ chạm môi vào, uống và cảm nhận vị đậm, mùi thơm của rượu. Mặc dù chỉ là nhấp nhỏ nhưng lại mang đến cảm giác say say say trong không khí của mùa xuân. Sự “ăm áp bầu xuân” được miêu tả bởi nhà thơ rất gợi cảm và sảng khoái. ‘‘Người thanh cái tiếng cũng thanh”, từ cách thưởng thức rượu cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải ai cũng có thể thưởng thức “rượu ngon cùng nhấp” như vậy, nhất là cái cảm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.
Thực sự là những ngày hạnh phúc. Nhưng cũng có những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày mất mát. Là những người theo triết học Nho, phục vụ cho một triều đại, đôi bạn chia sẻ nỗi đau của thời đại của họ:
Bên nhau trải qua những thời khắc khó khăn
Đấu tranh vươn lên mà không dám than trời
Anh già, em cũng đã già rồi
Biết rồi thì thôi, thế thôi mới đúng!
Khi nghe những câu thơ của Nguyễn Khuyến, ta cảm nhận được sự buồn bã, ngao ngán. Nguyễn Khuyến sử dụng cụm từ “buổi dương cửu” để ám chỉ thời kỳ loạn lạc khi Pháp xâm lược nước ta, coi đó như một vận hạn mà dân tộc phải đối mặt. Trong cảnh vận hạn đó, ông thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Câu thơ cuối cùng với ba từ 'thôi” trùng diệp, mang lại ấn tượng về một tâm trạng nặng nề: Biết thôi- thôi - thế thì thôi. Đây là tâm trạng của nhà thơ khi từ chức để tránh làm việc cho kẻ thù.
Trong 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã tóm tắt mối quan hệ bạn bè giữa hai người và sự sâu sắc, bền vững của tình bạn đó. Những kỷ niệm được nhà thơ nhắc lại đầy trân trọng, khiến ông cảm thấy nỗi đau hiện tại không thể chấp nhận được. Nhớ lại:
Muốn tuổi già thêm mệt mỏi
Ba năm gặp bạn một lần
Cầm tay, hỏi hết mọi chuyện
Hoan hô vì bác vẫn tinh thần còn trẻ trung.
Trong văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là sự mới mẻ, sắc sảo, mà nôm na là những dòng thơ thông thường, như “tuổi già muốn nghỉ ngơi”, “hỏi hết mọi chuyện”, và “tinh thần còn trẻ trung”, giống như lời của một ông lão nông thôn ở Hà Nam. Đúng vậy, Nguyễn Khuyến không phải là một nhà văn, ông chỉ thể hiện cảm xúc của mình! Nhà thơ còn tự nhủ:
So với bác, tuổi tôi còn trẻ hơn
Tôi lại đau trước bác vài ngày
Làm sao bác vội về ngay
Bỗng dưng, lòng tôi rụng rời!
Chỉ khi đối diện với nỗi đau thực sự, ta mới có những lời than phiền như thế. Nhưng liệu có gì khác biệt nếu nói: Tại sao lại là bác chết trước tôi nhỉ? Người nên chết trước phải là tôi chứ? Từ những lời than phiền này, mấy câu cuối cùng của đoạn thơ lộ ra sự chân thành và than oán:
Bỗng dưng, lòng tôi rụng rời!
Trước sự thật đau đớn, nhà thơ buộc lòng chấp nhận nỗi đau và cảm thấy điều này làm mình thật vô lí:
Ai cũng biết chán đời là điều không tránh khỏi
Vội vàng chi đã mải lên tiên
Rượu ngon không bằng bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Cái chết là một quy luật không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn cảm thấy điều đó là không công bằng: Cái chết của người bạn đã đến quá vội vàng, nó đã cướp đi một người bạn thân thiết của ông và cũng đã cướp đi tất cả niềm vui của ông. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của ông, nghe thật giản dị nhưng lại chứa đựng một sự thật về tình bạn đích thực trong cuộc sống:
Rượu ngon không bằng bạn hiền
Không mua không phải không có tiền mua
Trong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã.
Không còn bạn, không còn thiết uống rượu, vì không còn người để chia sẻ vị ngon của rượu. Không còn bạn, không còn hứng thú làm thơ, vì vậy?
Câu thơ suy nghĩ đắn đo viết
Viết để đưa ai, ai biết mà đưa?
Lắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ, rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai - ai biết - mà đưa” cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.
Nhà thơ nghĩ đến những mối tình bạn mà sách vở xưa kia đã từng ca ngợi, coi nhơ tuyệt đỉnh của tình bạn: Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để cho ai ngồi vào cái giường chỉ dành riêng để tiếp bạn; Bá Nha sau khi Chung Tử Kì chết thì quyết bỏ không chơi đàn bởi thấy không còn ai hiểu được tiếng đàn. Ông thay mối tình giữa ông với Dương Khuê chính là một tình bạn như thế; sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê đúng là sự mất mát như thế:
Giường kia treo cũng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Có thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thường làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chàng giúp được gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Người thơ khuyên mình không nên rơi lệ, vì tuổi già đã cạn dần nước mắt, chỉ còn như những giọt sương mong manh, không thể ép chúng trào thành dòng lệ chảy ngược.
Có thể khẳng định rằng trong văn thơ Việt Nam đã có nhiều bài thơ tuyệt vời về tình bạn, nhưng chưa có bài nào tả lại mối tình đẹp như bài 'Khóc Dương Khuê' của Nguyễn Khuyến. Điều đó chứng tỏ sự độc đáo của tình bạn và tài năng diễn đạt của nhà thơ.
Mytour