
Lapis lazuli | |
---|---|
Một khối lapis lazuli trong trạng thái tự nhiên từ Afghanistan | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Đá biến chất |
Công thức hóa học | Hỗn hợp của khoáng chất với thành phần chính lazurit |
Nhận dạng | |
Màu | Xanh lam, đốm với màu trắng của canxi và pyrit |
Dạng thường tinh thể | Đặc, to |
Vết vỡ | Không đồng đều |
Độ cứng Mohs | 5–5.5 |
Ánh | Mờ |
Màu vết vạch | xanh nhạt |
Tỷ trọng riêng | 2.7–2.9 |
Chiết suất | 1.5 |
Các đặc điểm khác | Các biến thể trong thành phần tạo ra sự khác biệt lớn về các giá trị trên. |
Lapis lazuli (/ˈlæpɪs
Từ khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 7 trước Công Nguyên, lapis lazuli đã được khai thác tại mỏ Sar-i Sang ở Shortugai (hiện nay thuộc tỉnh Takhar) cùng với các mỏ khác ở tỉnh Badakhshan, đông bắc Afghanistan ngày nay.
Lapis lazuli rất được ưa chuộng trong nền văn minh lưu vực sông Ấn (3300-1900 TCN). Các cổ vật từ lapis lazuli có niên đại khoảng 7570 TCN đã được phát hiện tại di tích Bhirrana, cổ xưa nhất trong khu vực. Hạt lapis cũng được tìm thấy trong các phần mộ thời kỳ đồ đá mới ở di tích Mehrgarh (hiện nay thuộc Pakistan), từ dãy Kavkaz cho đến Mauritania ở Tây Phi. Nó cũng được sử dụng trong mặt nạ của Tutankhamun (1341-1323 TCN).
Cuối thời trung cổ, lapis lazuli bắt đầu được xuất khẩu sang châu Âu, nơi nó được nghiền thành bột để tạo ra màu xanh lam sẫm, loại màu vẽ đắt tiền và cao cấp nhất trong các sắc lam. Màu xanh lam sẫm được nhiều họa sĩ vĩ đại trong thời kỳ Phục hưng và Baroque, như Masaccio, Perugino, Titian và Vermeer, sử dụng, thường được dùng để tô điểm cho trang phục của các nhân vật chính trong các bức tranh, đặc biệt là Trinh nữ Maria.
Ngày nay, các mỏ lapis lazuli ở Đông Bắc Afghanistan vẫn là nguồn khai thác chính. Ngoài ra, loại đá này cũng được tìm thấy tại các mỏ phía tây Hồ Baikal ở Nga, dãy núi Andes ở Chile, cùng với một số lượng nhỏ từ Angola, Argentina, Myanmar, Pakistan, Canada, Ý, Ấn Độ và Mỹ.
Ý Nghĩa Từ Nguyên
Trong tiếng Latin, Lapis có nghĩa là 'đá', trong khi lazuli là một biến thể của từ lazulum trong tiếng Latin trung đại, vốn có nguồn gốc từ từ Ả Rập لاجورد lājaward, xuất phát từ từ Ba Tư لاجورد lājevard, có nghĩa là 'bầu trời' hay 'thiên đàng'. Lapis lazuli từng được khai thác ở vùng Lājevard của Ba Tư cổ đại. Từ đây, Lazulum đã trở thành nguồn gốc của các từ chỉ màu xanh lam trong nhiều ngôn ngữ, như azul trong tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha, azzurro trong tiếng Ý, và azure trong tiếng Pháp và tiếng Anh.
Khoa học và Ứng Dụng




Thành Phần
Thành phần chính của lapis lazuli là lazurit (chiếm từ 25% đến 40%), một khoáng chất silicat feldspathoid với công thức hóa học (Na,Ca)8(AlSiO4)6(S,SO4,Cl)1-2. Đá lapis lazuli thường cũng chứa calci (màu trắng), sodalit (màu xanh), và pyrit (màu vàng kim). Một số mẫu còn có augit, diopside, enstatit, mica, hauynit; hornblend, nosean và loellingit, cùng với geyerit giàu lưu huỳnh.
Lapis lazuli thường xuất hiện trong đá cẩm thạch tinh thể do quá trình biến chất tiếp xúc.
Nguồn Gốc
Lapis lazuli được khai thác từ đá vôi ở thung lũng sông Kokcha thuộc tỉnh Badakhshan, đông bắc Afghanistan, nơi mỏ Sar-e-Sang đã được khai thác hơn 6.000 năm. Afghanistan từng là nguồn cung cấp lapis lazuli cho Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà, cũng như cho nền văn minh Hy Lạp và La Mã sau này. Lapis được đưa đến Ai Cập cổ đại qua các giao thương với Lưỡng Hà. Vào đỉnh cao của nền văn minh lưu vực sông Ấn khoảng năm 2000 TCN, thuộc địa Harappan, nay gọi là Shortugai, được thành lập gần khu mỏ lapis.
Ngoài các mỏ ở Afghanistan, lapis lazuli còn được khai thác tại dãy Andes gần Ovalle, Chile, và mỏ Tultui Lazurite ở phía tây Hồ Baikal tại Siberia, Nga. Một số lượng nhỏ cũng được khai thác ở Angola, Argentina, Myanmar, Pakistan, Canada, Ý, Ấn Độ và Mỹ (California và Colorado).
Ứng Dụng và Thay Thế
Lapis lazuli có thể được mài bóng và sử dụng để chế tác đồ trang sức, chạm khắc, hộp, khảm, đồ trang trí, tượng nhỏ và bình. Nó cũng được dùng trong trang trí nội thất và hoàn thiện công trình kiến trúc. Hai cột trang trí điện thờ trong Nhà thờ chính tòa Thánh Isaac ở St.Petersburg được làm từ lapis. Trong thời kỳ Phục hưng, lapis được nghiền và chế biến thành bột màu lam sẫm để dùng trong tranh sơn dầu và bích họa. Đến đầu thế kỷ 20, lapis không còn được dùng trong hội họa nữa và đã được thay thế bằng các chất tổng hợp hóa học rẻ hơn.
Lapis lazuli tổng hợp được sản xuất thương mại thông qua quy trình Gilson, tạo ra màu xanh lam sẫm nhân tạo và thủy phân kẽm phosphat. Nó cũng có thể được thay thế bằng spinel, sodalit, jasper nhuộm hoặc howlit.
Lịch Sử và Nghệ Thuật
Trong Thế Giới Cổ Đại

Lapis lazuli đã được khai thác ở Afghanistan và xuất khẩu sang Địa Trung Hải và Nam Á từ thời kỳ đồ đá mới, theo tuyến thương mại cổ xưa giữa Afghanistan và nền văn minh sông Ấn từ thiên niên kỷ thứ 7 TCN. Hạt lapis lazuli đã được phát hiện tại Mehrgarh, một di tích Đá mới gần Quetta ở Pakistan, cũng như tại các khu định cư từ thiên niên kỷ 4 ở Bắc Lưỡng Hà và tại di tích Đồ đồng Shahr-e Sukhteh ở Đông Nam Iran (thiên niên kỷ 3 TCN). Tại khu Lăng mộ Hoàng gia ở thành Ur của Sumer, người ta đã tìm thấy một con dao găm có cán lapis, một cái bát khảm lapis, bùa chú, hạt cườm và các chi tiết khảm lông mày và râu trên tượng, có niên đại từ thiên niên kỷ 3 TCN.
Lapis đã được sử dụng rộng rãi như con dấu và đồ trang sức ở vùng Lưỡng Hà cổ đại bởi các nền văn minh Akkad, Assyria, và Babylon. Nó được đề cập nhiều lần trong sử thi Gilgamesh (thế kỷ 17-18 TCN), một trong những tác phẩm văn học cổ xưa nhất. Bức tượng Ebih-Il từ thiên niên kỷ thứ 3 TCN có đôi mắt được khảm lapis, hiện đang được trưng bày tại Louvre sau khi được khai quật ở thành phố cổ Mari, Syria.
Ở Ai Cập cổ đại, lapis lazuli thường được dùng để chế tác bùa chú và đồ trang sức. Những món đồ trang sức làm từ lapis đã được phát hiện trong các cuộc khai quật di tích Ai Cập tiền sử Naqada (3300-3100 TCN). Các phù điêu từ thời Thutmosis III (1479-1429 TCN) tại quần thể đền Karnak minh họa cảnh vua được dâng tặng các mảnh lapis lazuli. Cleopatra còn sử dụng bột lapis lazuli để trang điểm mắt.
Những món đồ trang sức bằng lapis lazuli cũng đã được phát hiện ở Mykenai, cho thấy mối liên kết thương mại giữa người Mykenai và nền văn minh Ai Cập cũng như các nền văn hóa phương Đông.
Từ thời kỳ cổ đại đến hết thời Trung cổ, lapis lazuli thường được gọi là sapphire (sapphirus trong tiếng Latinh, sappir trong tiếng Hebrew); tuy nhiên, nó khác với đá sapphire hiện nay, vốn là một loại corundum màu xanh. Nhà khoa học Hy Lạp Theophrastus đã mô tả trong cuốn sách về đá rằng sapphire có vết đốm vàng, điều này phù hợp với đặc điểm của lapis lazuli.
Trong Cựu Ước có nhiều đoạn nhắc đến 'sapphire', nhưng đa số học giả cho rằng đó là lapis lazuli, vì sapphire chưa được biết đến trước thời kỳ Đế quốc La Mã. Ví dụ, trong Exodus 24:10: 'Họ thấy Đức Chúa Trời của Israel, dưới chân Ngài là đá sapphire...' Thuật ngữ trong bản dịch Kinh Thánh tiếng Latinh ở đây là 'lapidus sapphiri', chỉ lapis lazuli. Các bản dịch hiện đại, như Cuộc sống mới lần thứ hai, thường dịch là lapis lazuli thay vì sapphire.
Ngọc lưu ly cũng xuất hiện trong Kinh Phật. Trong Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh có ghi: 'Ở phương Đông, cách thế giới Ta Bà khoảng 10 hằng hà sa Phật độ, có một cõi Phật tên là Tịnh Lưu Ly, Đức Phật tại đó tên là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.' Theo các kinh điển, Phật Dược Sư (tiếng Phạn: Bhaisajya-guru Vaidurya-prabharajyah) trong quá trình tu hành Bồ tát đạo đã phát 12 đại nguyện nhằm cứu khổ bệnh cho chúng sinh, và sau khi thành Phật, Ngài cư ngụ ở thế giới Tịnh Lưu Ly, với ánh sáng lưu ly trong suốt tỏa ra từ thân. Ngài thường được miêu tả trong tư thế thiền định, tay trái cầm một bình thuốc màu lưu ly.
Thư viện



-crop.jpg/133px-Tsarevich_(Fabergé_egg)-crop.jpg)






Nguồn
- Bowersox, Gary W.; Chamberlin, Bonita E. (1995). “Gemstones of Afghanistan”. Tucson, AZ: Geoscience Press.
- Oldershaw, Cally (2003). “Firefly Guide to Gems”. Toronto: Firefly Books.
- Bariand, Pierre, 'Lapis Lazuli', Mineral Digest, Vol 4 Winter 1972.
- Lapparent A.F., Bariand, P. et Blaise, J., 'Une visite au gisement de lapis lazuli de Sar-e-Sang du Hindu Kouch, Afghanistan,' C.R. Somm.S.G.P.p. 30, 1964.
- Wise, Richard W., Secrets Of The Gem Trade, The Connoisseur's Guide To Precious Gemstones, 2016 ISBN 9780972822329
- Wyart J. Bariand P, Filippi J., 'Le Lapis Lazuli de Sar-e-SAng', Revue de Geographie Physique et de Geologie Dynamique (2) Vol. XIV Pasc. 4 pp. 443–448, Paris, 1972.
- Herrmann, Georgina, 'Lapis Lazuli: The Early Phases of Its Trade', Oxford University Dissertation, 1966.
- Bakhtiar, Lailee McNair, Afghanistan's Blue Treasure Lapis Lazuli, Front Porch Publishing, 2011 ISBN 978-0615573700
- Korzhinskij, D.S., 'Gisements bimetasomatiques de philogophite et de lazurite de l'Archen du pribajkale', Traduction par Mr. Jean Sagarzky-B.R.G.M., 1944.
Liên kết ngoài
- Thông tin về lapis lazuli trên Gemstone.org Lưu trữ ngày 01-02-2003 trên Wayback Machine
- Tài liệu khóa học trực tuyến từ Đại học California tại Berkeley Lưu trữ ngày 01-01-2009 trên Wayback Machine
- Lapislazuli: Sự xuất hiện, khai thác và triển vọng thị trường của một sắc tố màu xanh da trời
Trang sức | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Các dạng |
| ||||||||||||
Chế tác |
| ||||||||||||
Vật liệu |
| ||||||||||||
Thuật ngữ |
| ||||||||||||
|