
Ngói là vật liệu phổ biến để lợp mái cho các công trình xây dựng. Tùy thuộc vào cách chế tạo, nguyên liệu, công nghệ sản xuất, và ứng dụng, ngói có thể có nhiều loại và tên gọi khác nhau.
Nguồn gốc từ ngữ
Từ ngói có nguồn gốc từ Hán Việt cổ, bắt nguồn từ cách phát âm của từ tiếng Hán cổ viết bằng chữ Hán “瓦”. Âm Hán Việt hiện đại của “瓦” là ngoã. Theo nghiên cứu của William H. Baxter và Laurent Sagart, phát âm cổ của từ “瓦” là *C.ŋʷˤra[j]ʔ.
Phân loại ngói lợp

Ngói đất nung
Ngói đất nung được làm chủ yếu từ đất sét, trải qua các công đoạn như ủ đất, cán, nhào, đùn ép, và hút khí để tạo thành những viên nhỏ (galet). Sau khi phơi khô, ngói sẽ được tạo hình bằng phương pháp dập dẻo. Tùy thuộc vào hình dáng và công dụng, ngói sẽ có các tên gọi khác nhau.
Ngói mộc được sấy khô bằng phương pháp tự nhiên hoặc cưỡng bức đến mức độ ẩm mong muốn. Sau khi khô, ngói có thể được tráng men hoặc không, sau đó được đưa vào lò nung. Dưới tác động của nhiệt độ, thường từ 1000°C đến 1150°C, đất sét sẽ kết dính, trở nên cứng chắc, giảm khả năng hút nước và duy trì hình dáng ổn định.
Một số công nghệ có thể bổ sung thêm thiết bị, trong khi những công nghệ khác lại giản lược một số bước, tất cả đều ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm cuối cùng.
Ngói có thể được nung trong lò thủ công, lò tự động, lò liên tục hoặc lò gián đoạn. Ngói không tráng men chỉ cần nung một lần, trong khi ngói tráng men có thể cần nung một hoặc hai lần.
Ngói đất nung không tráng men (ngói truyền thống)
- Ngói 22 viên/m² – Đây là loại ngói phổ biến nhất mặc dù không có tên gọi cụ thể.
- Ngói 20 viên/m².
- Ngói 10 viên/m².
- Ngói vảy cá, vảy rồng.
- Ngói con sò.
- Ngói hếch còn gọi là ngói mũi hài đơn (hoặc kép).
- Ngói liệt, còn gọi là ngói ván hoặc ngói bằng.
- Ngói âm.
- Ngói dương.
- Ngói chữ S.
- Ngói ống (hay ngói tiểu) – Ngói câu đầu.
- Ngói úp nóc, ngói chạc ba, chạc bốn, ngói đuôi, ngói rìa, v.v.
Ngói đất nung tráng men
- Ngói tráng men: Đây là các loại ngói đất được phủ lớp men gốm sau khi nung, và được gọi là ngói tráng men.
- Ngói lưu ly: Các loại ngói âm, dương, ống, câu đầu, trích thủy, liệt nếu được phủ lớp men thanh lưu ly (青琉璃), hoàng lưu ly (黃琉璃) hoặc bích lưu ly (碧琉璃) sẽ được gọi là ngói lưu ly.
- Ngói vỏ quế, hay còn gọi là ngói la-qua (羅堝瓦): Là loại ngói ống tráng men nhưng nhỏ và dài hơn, không có chuôi ngói như ngói lưu ly.
Ngói trang trí
Một số loại ngói được sản xuất với kích thước nhỏ, có thể được tráng men hoặc không, và được dùng để trang trí trên mái đã đúc sẵn (thường là mái bê tông). Chúng không có chức năng lợp mái chống mưa nắng mà chủ yếu để làm đẹp.
Ngói xi măng, ngói không nung hoặc ngói màu
Được sản xuất từ vữa xi măng và lớp sơn phủ bột màu. Sau khi trộn vữa xi măng, nó được đổ vào khuôn kim loại và nén chặt bằng búa gỗ (kỹ thuật thủ công) hoặc rung máy (kỹ thuật công nghiệp). Sau đó, ngói được đưa vào quá trình bảo dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Tại Việt Nam hiện nay, các nhà sản xuất ngói xi măng sử dụng hai công nghệ chính để sơn phủ: công nghệ khô và công nghệ ướt.
Công nghệ phủ màu khô: Sơn acrylic được phun lên bề mặt ngói khi còn khô sau khi sấy. Quy trình này đơn giản như sơn tường và việc chọn màu sắc cũng dễ dàng. Tuy nhiên, công nghệ này không đảm bảo độ bền lâu dài của màu sắc. Lớp sơn acrylic sẽ dễ bị bong tróc và chóng phai vì sơn này nhạy cảm với tia cực tím.
Ngược lại, công nghệ phủ màu ướt WET on WET đang được các nhà sản xuất ngói bê tông hàng đầu áp dụng. Với công nghệ này, bột màu được trộn với vữa hồ và phun trực tiếp lên bề mặt ngói còn ướt ngay sau khi ngói được định hình, tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa lớp màu và ngói. Kết quả thực tế cho thấy, màu sắc của ngói bền lâu hơn so với công nghệ khô.
Ngói composite
Ngói composite được ưa chuộng ở một số khu vực vì hệ số giãn nở nhiệt của nó phù hợp với khí hậu tại đó, điều mà ngói xi măng và ngói đất nung không thể đáp ứng được.
Ngói Ác - đoa
Ngói Ác - đoa (Ardoise) là loại ngói được khai thác từ đá trầm tích tại Pháp, có màu đen như than đá và hình dạng tương tự ngói mũi hài hoặc hình chữ nhật.
Một số kiểu lợp ngói
Kiểu lợp ngói xi măng
1. Cài đặt cây mè sao cho khoảng cách giữa các cây mè đồng đều, nằm trong khoảng từ 320 đến 340 mm. Cây mè ở vị trí thấp nhất phải cách điểm mái 345 mm, và hai cây mè trên nóc cần cách nhau từ 40 đến 60 mm.
2. Xếp từng viên ngói vào khung theo chiều từ dưới lên bắt đầu từ hàng thấp nhất.
3. Sử dụng vít để cố định mỗi viên ngói tại mỗi hai hàng, đảm bảo ngói không bị di chuyển.
4. Không trám vữa vào khoảng trống ở rìa và không tạo các lỗ nhỏ đường kính 6 mm trên rãnh thoát nước dọc theo rìa viên ngói.
5. Cắt ngói dọc theo hông sao cho rãnh càng nhỏ càng tốt. Không trét vữa lên khoảng trống hông mái và không cần tạo lỗ dọc theo hông mái.
6. Sử dụng miếng xốp hoặc giẻ khô để lau sạch vết vữa xi măng trên ngói chính và ngói nóc khi vữa khô và có màu trắng.
7. Phủ lớp sơn lên vữa dọc theo nóc và hông mái, đồng thời tránh để sơn dính lên ngói chính và ngói nóc.
8. Đảm bảo khoảng cách giữa các viên ngói tại khe mái từ 30 đến 50 mm và sử dụng sơn để phủ lên các gờ của viên ngói đã được cắt.
9. Không sử dụng vữa để kết nối giữa hai viên ngói nóc, cũng như giữa ngói nóc và ngói hông mái, và không bít kín các khe mái bằng vữa.
Kiểu lợp thông thường
Trên một mái đã được hoàn thiện với hệ thống gỗ, người thợ chỉ cần đặt các viên ngói sát nhau hoặc chồng lên nhau theo các gờ đã được định hình trên từng viên ngói. Ở các khu vực như nóc, bờ quyết hoặc những điểm giao nhau của mái, có thể sử dụng ngói úp nóc, ngói chạc 3, chạc 4 để che phủ và cố định bằng hồ vữa xi măng.
Tại những khu vực thường xuyên bị gió bão, cần phải xâu dây thép vào các lỗ đã được khoan sẵn trên viên ngói và buộc chặt vào phần gỗ hoặc sắt phía dưới để tăng cường độ chắc chắn.
Kiểu lợp ngói lưu ly

Một số thuật ngữ
- Nê ngõa tượng cục: Xưởng chuyên sản xuất gạch ngói.
- Nê ngõa tượng: Thợ lợp ngói.
- Ngõa Tượng (nghĩa đen là thợ ngói): Đây là tên một địa danh ở giữa hai làng La Khê và Địa Linh, thuộc xã Hương Vinh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế, nơi có nhiều người làm nghề lợp ngói.
- Ngày nay, thuật ngữ được sử dụng để chỉ những người thợ lợp ngói lưu ly là nghệ nhân, thợ chính, hoặc thợ kép.
- Ví dụ: Trương Văn Ấn được phong danh hiệu nghệ nhân nề ngoã, gia đình ông đã truyền nghề qua 7 thế hệ.
Gầy nóc (hay gầy mái)
Khi mái đã được hoàn thiện với hệ thống gỗ, thợ cần đặt các viên ngói đầu tiên ở vị trí nóc và cố định chúng bằng hồ vữa truyền thống hoặc vữa xi măng. Đây là bước quan trọng để sắp xếp và định hình các viên ngói ở góc mái (bờ nóc, bờ quyết) cho các công đoạn lợp sau này. Trong quá trình gầy mái, ngoài việc căn chỉnh các viên ngói theo quy cách truyền thống, thợ cần đảm bảo các viên ngói nằm trên một mặt phẳng, bằng cách sử dụng vữa lợp và ngói liệt không men. Hồ vữa truyền thống hoặc vữa xi măng sẽ được dùng để hoàn thiện bờ nóc và bờ quyết.
Đây là các công đoạn phức tạp nhất, đòi hỏi tay nghề cao và mất nhiều thời gian, vì các viên ngói đầu tiên sẽ là cơ sở để lợp các phần mái còn lại. Dựa vào hàng ngói đã được định vị ở bờ nóc và bờ quyết, các viên ngói âm dương sẽ tiếp tục được xếp từ trên xuống dưới. Viên ngói cuối cùng sẽ được khóa lại và trang trí bằng các viên ngói câu đầu và trích thủy.
Lắp đặt các con giống

Các con giống như rồng, phụng, tứ linh và các hình khối trang trí khác thường được chế tạo trước, sau đó vận chuyển và lắp đặt tại những vị trí như đỉnh nóc hoặc đầu hồi của mái.
Lợp ngói liệt chiếu
Ngói liệt chiếu là loại ngói liệt được phủ men toàn bộ một mặt; khi lợp, mặt men sẽ hướng xuống dưới. Ngói này tạo ra một mặt phẳng để gắn các loại ngói khác lên trên, đồng thời mặt men hướng xuống giúp làm đẹp cho mái từ dưới nhìn lên.
Theo hướng dốc của mái từ trên xuống, sau mỗi vài hàng ngói liệt chiếu, cần phải đóng thêm các thanh gỗ nhỏ dài (gọi là lách chặn) để ngăn ngừa hiện tượng trượt của mái ngói. Nếu mái có độ dốc lớn, số lượng lách chặn cần phải gia tăng.
Kích thước cơ bản của ngói là: 180 mm × 140 mm.
Lợp ngói liệt độn hay liệt thí
Ngói liệt độn là loại ngói liệt không men, được lắp trên lớp ngói liệt chiếu, có thể sử dụng từ 1 đến 3 lớp. Nó giúp khoá chặt lớp liệt chiếu và tạo thành một bề mặt phẳng hơn để dán các loại ngói khác lên trên.
Lợp mái ngói chính

- Mái ngói âm dương (Ngói lưu ly)
Từ xa xưa, ngói âm dương đã là một phần không thể thiếu trong kiến trúc Việt Nam. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp loại ngói này trên mọi miền đất nước, từ những ngôi nhà cổ ở phố cổ Hội An đến các mái nhà quen thuộc ở phố xá và làng quê. Ngói âm dương là kết quả của sự sáng tạo và lao động không ngừng nghỉ của người Việt. Đây là một thành tựu quý giá trong ngành xây dựng, được sử dụng rộng rãi từ miền núi phía Bắc đến miền Trung và miền Nam. Chính những mái ngói với hoa văn chạm khắc tinh xảo đã tạo nên vẻ đẹp cổ kính, sang trọng và góp phần vào bản sắc văn hóa Việt.
Ngói âm và ngói dương có dạng hình chóp cụt với hai đầu khác nhau, một đầu lớn và một đầu nhỏ. Ngói dương có mặt lồi được tráng men một phần, trong khi ngói âm có mặt lõm được tráng men một phần.
Kích thước cơ bản của ngói (đầu lớn nhất - đầu nhỏ nhất - chiều dài viên ngói) là: 240-220-240 mm hoặc 210-190-210 mm. Hiện chưa có tài liệu nào đề cập đến bán kính cong của loại ngói này.
Khi lợp mái ngói, các viên ngói ở hàng trên sẽ lợp chồng lên 2/3 viên của hàng phía dưới. Ngói âm được đặt dưới cùng, còn ngói dương sẽ phủ lên trên khe giữa các viên ngói âm của hàng phía trên để ngăn nước rò rỉ. Trọng lượng của 1 m² mái ngói âm dương dao động từ 160 đến 180 kg khi ngói đã hoàn toàn khô.
Ngói âm và ngói dương được liên kết với nhau bằng vữa truyền thống hoặc vữa xi măng. Trong điều kiện thời tiết xấu, đặc biệt là vào mùa mưa ở Huế, trọng lượng mái có thể tăng do ngói hút nước, điều này có thể ảnh hưởng đến kết cấu của công trình. Để tránh hiện tượng dột vào mùa mưa, thợ lợp cần tạo ra khoảng rỗng nhất định dưới viên ngói dương. Ở hàng ngói cuối cùng, người ta thường sử dụng ngói câu đầu hoặc trích thủy để tăng tính thẩm mỹ cho mái ngói.
Khi xây dựng mái, cần chú ý đặc biệt đến đường phân thủy và số lượng hàng ngói theo chiều dọc của công trình. Trung bình, số viên ngói (cả âm và dương) cần cho 1 m² mái lợp theo công nghệ truyền thống là khoảng 84 viên.
Ngói âm dương nổi bật với độ bền cao và thiết kế lợp đặc biệt, giúp mái nhà thoáng mát vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Loại ngói này thường được sử dụng cho các công trình hành chính, nhà ở của tầng lớp cao, quan lại, hoặc trong kiến trúc tôn giáo.
- Mái ngói âm ống
Mái ngói âm ống được đặc trưng bởi sự kết hợp của hai loại ngói: ngói âm và ngói ống. Ngói ống có dạng hình ống với hai bậc hoặc hình chóp cụt cắt ngang theo mặt phẳng trùng với tâm ống, và chỉ được tráng men một phần trên mặt lồi.
Kích thước cơ bản của ngói ống là: chiều dài toàn bộ - chiều dài hữu ích - đường kính lớn nhất, với các kích thước phổ biến là 300-240-170 mm hoặc 230-180-120 mm.
Cách lợp ngói âm ống tương tự như cách lợp ngói âm dương. Tuy nhiên, vì kích thước của ngói ống khác so với ngói dương, số lượng ngói sử dụng cũng sẽ khác.
Để hoàn thiện hàng ngói cuối cùng (từ trên xuống dưới), người ta thường dùng ngói câu đầu hoặc trích thủy để tăng cường vẻ đẹp thẩm mỹ của mái ngói.
- Mái ngói liệt men

Mái ngói liệt men được đặt tên theo lớp ngói liệt có tráng men. Khác với ngói liệt chiếu, loại ngói này chỉ có một phần bề mặt được phủ men.
Kích thước cơ bản của ngói liệt men là: chiều dài - chiều dài hữu ích - chiều rộng, với các số đo là 180-10-180 mm.
Khi lợp, các viên ngói được lắp đặt theo kiểu đan cài, với các phương pháp như lòn ba hoặc lòn tư (lóng ba, lóng tư).
Một số kiểu ngói đặc biệt khác
Trên một mái bê-tông, có thể tạo hình mái ngói bằng cách dùng hồ vữa hoặc dán các loại ngói yêu thích lên mái. Loại mái này thường được gọi là mái ngói giả, mái giả ngói, hoặc giả mái ngói...
Trong trường hợp này, ngói chủ yếu đóng vai trò trang trí. Chức năng bảo vệ chống lại thời tiết trở thành yếu tố phụ.