(Mytour) Ngũ Giới là gì? Trong Đạo Phật, Ngũ Giới là những điều răn dạy cốt lõi của Đức Phật dành cho Phật tử, hay chính là những quy tắc đạo đức cơ bản mà người tu hành Phật giáo phải tuân thủ trong cuộc sống hàng ngày. Việc tuân theo Ngũ Giới giúp định hình cuộc sống của chúng ta, đảm bảo sự hòa hợp, đạo đức và lòng từ bi trong tư cách và hành vi của mỗi người
- Phật nói về đặc điểm của người có số GIÀU bền vững, ăn ở có phúc ắt có phần!
- Nghiệp gia đình là gì? Liệu cứ liên tục chịu khổ vì nghiệp của ông cha để lại có quá là oan ức?
- Khi vào chùa lễ Phật, nhất định KHÔNG được có suy nghĩ kiểu này!
1. Ngũ Giới là gì?

Ngũ Giới (Pañca- sīla) là năm điều răn cấm mà Phật đặt ra cho Phật tử, nhằm ngăn chặn những tưởng niệm ác, lời nói không lành, hành động bất chính.
Năm điều răn cấm bao gồm:
- Không được sát hại
- Không được trộm cắp
- Không được làm hại về đạo đức tình dục
- Không được nói dối
- Không được uống rượu bia
5 điều răn này được coi là nguyên tắc đạo đức và giới hạn căn bản của một con người nói chung và một Phật tử nói riêng. Một người tu trì về giới hạnh cần phải thực hiện các phẩm chất như lời Phật dạy: Từ bỏ sát hại, từ bỏ lấy trộm, từ bỏ hành vi không đạo đức về tình dục, từ bỏ nói dối, từ bỏ nghiện rượu.
Một người sau khi quy y tức là đã tự xác nhận là đệ tử Phật, để có đủ tư cách một Phật tử thì cần phải giữ gìn năm giới. Người đã quy y tam bảo là đã bước chân lên con đường giải thoát, nhưng nếu không tuân theo năm giới là chỉ mới bước đầu và không thể tiến đến giải thoát thực sự được.
Với năm điều răn cấm này, Phật do lòng từ bi với mọi loài sống đã ban cho chúng ta, để chúng ta có cuộc sống an lành và hạnh phúc. Giữ năm giới này là vì bản thân mình, chứ không phải vì Phật.
Ngũ Giới được xem là nguyên lý đạo đức tối thiểu của một cuộc sống đầy đủ và tự do, thể hiện đầy đủ lòng từ bi, tôn trọng cuộc sống, hạnh phúc và phẩm hạnh của con người. Nếu con người xem Ngũ Giới là nền tảng đạo đức của cuộc sống thì không còn khủng hoảng đạo đức trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Luật giới của đạo Phật giúp con người có phương pháp để không tạo ra hành động xấu, để giảm bớt khổ đau của mình và của người khác. Có sáu luật giới:
- Kiềm chế: ngăn cản ba tác phẩm ác (hành động, lời nói và ý niệm) để không tự do ra.
- Thanh lương: với ba tác phẩm được làm sạch sẽ nên không bị đốt cháy bởi những dục vọng sinh ra, giúp tâm hồn mát mẻ và nhẹ nhàng hơn.
- Phép nghiệp: ngăn cản những ý tưởng xấu mà có thể làm hại cho những hành động xấu, giúp phát triển hành vi thiện lành.
- Luật nghi: những quy tắc xây dựng đạo đức con người và hoàn thiện nhân cách.
- Hành vi tốt: những hành vi xứng đáng được khen ngợi bởi mọi người.
- Bảo vệ: giữ gìn và bảo vệ được gọi là “phòng chống ác hình” (ngăn ngừa những hành vi xấu, chấm dứt những việc ác).
Nhờ đó, chúng ta thấy rõ rằng năm giới của Phật được dạy nhằm mục đích cho bản thân mình, để đem lại hạnh phúc cho gia đình, xã hội và tất cả mọi người, góp phần xây dựng một cuộc sống an bình và hạnh phúc.
2. Đặc điểm và lợi ích của việc tuân thủ Ngũ Giới là gì?

2.1 Giới thứ nhất: Không sát sinh
Điều răn cấm đầu tiên mà Đức Phật dạy chúng ta là không được sát sinh, nghĩa là không giết hại bất kỳ sinh mạng nào, từ con người đến các loài động vật. Sinh mạng là điều quý giá nhất, đặc biệt là mạng sống của con người. Việc giết hại sinh mạng khác để bảo vệ mạng sống của mình là một hành động ác, trái với đạo lý.
- Tại sao Phật giáo cấm sát sinh?
- Tôn trọng sự công bằng:
Mỗi người đều coi mạng sống của mình là quý giá, là tài sản vô giá. Khi có ai đó mưu hại, ta sẽ quyết liệt bảo vệ mạng sống của mình. Nếu ta đã quý trọng mạng sống của mình, tại sao lại muốn làm hại mạng sống của người khác?
Mở rộng ra, các loài vật cũng trân quý mạng sống của chúng. Khi một con bò hay một con lợn sắp bị giết, ta thấy chúng phản kháng mãnh liệt, bộc lộ nỗi đau đớn cùng cực qua tiếng kêu la và sự giãy giụa.
Theo lẽ công bằng, điều mà ta không muốn người khác làm cho mình đau khổ thì cũng đừng làm cho người khác hay loài vật khác phải chịu đựng. Đức Phật dạy: “Ai cũng sợ gươm đao, ai cũng sợ sự chết chóc. Vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, đừng giết hại, đừng bảo người khác giết hại!”.
- Tôn trọng Phật tánh bình đẳng:
Chúng sinh vật, dù khác hình dáng, vẫn mang một Phật tính chung. Nếu Phật tính là bình đẳng, không có lý do nào để cho rằng Phật tính ở người có giá trị hơn ở động vật, ở tầng lớp này, hay da màu này. Sát hại sinh vật cũng là sát hại Phật tính.
- Nuôi dưỡng lòng từ bi:
Đức Phật coi mọi sinh vật như con cái nên Ngài không chấp nhận đệ tử sát hại sinh vật trong bất kỳ tình huống nào. Lòng giết hại sinh mạng là lòng độc ác cực thịnh, làm tắc nghẹt tâm từ bi.
Giết một con vật vô cớ cũng bạo ác không kém giết người. Lòng nhẫn tâm khiến kẻ khác hay vật khác giãy giụa, rên rỉ, quằn quại trong máu chảy, trong nước mắt nóng trước khi thở cuối cùng là tự giết lòng từ bi, là bóp chết mầm yêu thương trong tâm hồn chúng ta. Như thế khó mà tu hành để được chính quả.
Đức Khổng Tử cũng có nói: “Nghe tiếng kêu la của con vật, không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống, không muốn thấy nó chết”. Do đó, người có lòng từ bi hay nhân ái không nỡ sát hại người hay vật.
- Tránh nhận hậu quả của oán thù:
Khi ta giết một người hoặc một con vật, sự oán hận của họ không thể dập tắt. Họ bị ta giết vì thân cô thế cô, vì yếu sức. Họ mang khối oán thù, chờ đợi dịp báo thù, con cái, hoặc người thân của họ sẽ trả thù. Mỗi ngày, ta gieo căm hận cho người và vật, tích lũy lâu ngày khối oán gia đấy to lớn hơn sức ta, rồi ta sẽ bị nó sát hại lại.
Càng tạo nghiệp sát hại, ta càng lao mình vào vòng xoay đau khổ. Đức Phật đã dạy: “Thường sinh tâm sát hại, càng tăng trưởng nghiệp khổ, mãi xoay vần trong sinh tử, không có ngày ra khỏi” (Kinh Lăng Già).
- Lợi ích của việc không sát hại:
Vì những lý do trên, đức Phật cấm Phật tử giết hại. Không vi phạm giới này, sẽ đem lại những lợi ích sau đây:
- Lợi ích cá nhân:
Người không tàn nhẫn sát nhân, hại vật, không độc ác làm đổ máu, xẻ thịt, chặt đầu, cắt cổ... sẽ không bị bứt rứt hối hận trong lòng, thân tâm được nhẹ nhàng, thư thái, giấc ngủ an lành, nét mặt hiền hòa, trong sáng.
- Lợi ích xã hội:
Nếu tất cả loài người trên thế giới giữ nguyên luật đầu tiên của đạo Phật, không chiến tranh sẽ xảy ra và các nghiệp sinh tử luân hồi sẽ được giải thoát.
- Hạn chế của việc giữ giới sát:
Vẫn biết giết hại là tạo nhân khổ, nhưng người tại gia còn ăn mặn, còn làm công kia việc nọ, thì khó tránh khỏi phạm giới sát. ở đây không bắt buộc chúng ta phải triệt để, chỉ cần giữ phần quan trọng là không giết người và các con vật lớn như: trâu, bò, ngựa, chó, lợn, dê.
Còn những con vật nhỏ, nếu tránh giết được bao nhiêu thì quý bấy nhiêu. Chúng ta nên đi từ từ thì chắc chắn hơn. Nhất là không nên giết hại sinh vật một cách vô ích, giết để thoả lòng thích giết.
- Lưu ý khi giữ giới sát:
- Không để cho ác ý sinh ra:
Giết một con vật lớn mà vì vô tình hay vì tự vệ, thì cái quả báo của nó còn nhẹ hơn là giết một con sâu cái kiến với ác ý muốn giết cho vui tay.
- Nên tránh sự huân tập giết hại trong hoàn cảnh này:
Những đứa trẻ khi lên 5, lên 3, ra sân gặp chuồn chuồn, bươm bướm, chụp bắt rồi ngắt đầu, bứt cánh... nếu cha mẹ thấy mà không nhắc nhở; đến 12, 13 tuổi, chúng sắm lưới giăng câu, bắn chim, bắt cá; đến 20, 25 tuổi, chúng chọc tiết lợn, giết chó... vẫn không bị ngăn cấm, thì sau này quen với tính hung bạo, trong cơn giận dữ, chúng có thể giết người mà không gớm tay.
2.2 Giới thứ hai: Không được cướp đoạt
Giới thứ hai trong Ngũ Giới của Đạo Phật là không được phép cướp đoạt.
Cướp đoạt là lấy những vật thuộc quyền sở hữu của người khác mà không có sự ưng thuận, hay cưỡng ép người khác ưng thuận bằng vũ lực hoặc quyền hành. Những vật quý giá như nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc, ngọc ngà, cho đến những vật hèn mọn như lá rau, trái ớt v.v người ta không cho mà mình cố ý lấy đều là cướp đoạt.
Trộm cướp có nhiều cách thức: Dùng sức mạnh, bè bạn giết người là ăn cướp; lợi dụng quyền lực lấy tiền bạc của người yếu là ăn cướp; bắt ép người trong cảnh khó khăn để cho vay nặng lãi, cầm bán với giá rẻ là ăn cướp; tích trữ hàng hoá để bán lén lút là ăn cướp. Dùng mưu mẹo rình rập, lén lút lấy của người là ăn trộm; cân non, đong thiếu, trốn thuế, lậu thuế, lấy của người mà không trả lại cũng là ăn trộm.
Có thể nói tóm gọn là: bất kỳ hình thức nào, do lòng tham lấy của người một cách bất chính đều là trộm cướp.
Nếu vì nghèo khó, vợ con bệnh, thiếu gạo, thiếu thuốc, buộc lòng gian xảo, thì tội còn được xem xét nhưng đã giàu có, ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa mà vẫn lường gạt người, cướp công để sống như vương giả trên mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo đói, thì tội ác vô cùng nặng nề.
- Tại sao Phật giáo cấm trộm cướp?
- Tôn trọng công bằng:
Chúng ta không muốn ai lấy của chúng ta, vậy tại sao lại muốn cướp đoạt của người khác? Quyền sở hữu cá nhân của chúng ta, chúng ta biết tôn trọng, vậy tại sao lại chà đạp lên quyền sở hữu của người khác? Làm như thế là trái lẽ công bằng. Một xã hội mà thiếu công bằng thì không thể tồn tại lâu dài được.
- Tôn trọng sự bình đẳng:
Mỗi người đều có Phật tính như nhau, vậy tại sao chúng ta lại muốn làm khổ người khác để chúng ta được sung sướng? Tại sao chúng ta lại muốn hưởng những đặc ân bất chính trong khi chúng ta cũng chỉ là một con người như bao người khác?
- Nuôi dưỡng lòng từ bi:
Một khi vô ý đánh mất một vật gì hay một số tiền, chúng ta buồn khổ, ăn không ngon, ngủ không yên vậy tại sao lại nỡ lòng lấy của người để người phải khóc than đau khổ vì chúng ta?
Con người thường nói: “Tiền tài là huyết mạch”. Điều đó có nghĩa là kẻ cướp bóc của người khác cũng chính là cướp đi máu thịt người, cướp đi sinh mạng của họ.
Chỉ có những người không có lòng thương người, không có lương tâm mới có thể làm những việc tàn ác như vậy. Với chúng ta, là Phật tử, chúng ta đang nỗ lực nuôi dưỡng lòng từ bi, không thể cướp bóc của người khác được.
- Tránh báo thù vì nghiệp:
Trong một xã hội tổ chức, tôn trọng công lý, tội phạm trộm cắp luôn bị trừng phạt. Khi chưa bị bắt, kẻ trộm phải tìm cách để trốn thoát, sống trong bóng tối. Khi bị bắt, kẻ trộm phải bị buộc tội, điều tra và giam giữ. Dù thân phận của họ bị hao mòn, nhưng gia đình của họ, cha mẹ, vợ con cũng phải chịu đau buồn, xấu hổ và mất hết hy vọng vào tương lai.
Nhưng nếu luật pháp thế gian không trừng phạt, thì kẻ trộm cũng không thoát khỏi luật nhân quả. Trộm của người khác sẽ bị kẻ khác trộm cướp, gây ra những thù oán và đau khổ. Đức Phật dạy rằng:
“Những kẻ tham lam vật chất không chịu rời bỏ, cũng như đứa trẻ khóc lóc vì mất mật ngọt chảy dính trên lưỡi dao, sẽ phải chịu cái ác bị đứt mất lưỡi (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).
Do đó, vì lòng tham của tiền bạc, nhiều người đã tự đẩy mình vào tù đày, vào địa ngục. Vì những lý do này, Đức Phật đã cấm đệ tử không được trộm cắp.
- Lợi ích của việc không trộm cắp:
- Lợi ích đối với cá nhân:
Người không tham lam sẽ có cuộc sống hiện tại được bình yên, không phải lo lắng bị bắt, bị giam cầm, không gặp khó khăn trong mọi việc và được mọi người tin tưởng, giao phó các vị trí quan trọng. Người không tham lam sẽ có cuộc sống sau này được hưởng phúc lộc, giàu sang, hạnh phúc, và con cháu nhiều đời cũng được thừa hưởng từ dư phúc của ông bà, cha mẹ mà được tôn quý.
- Lợi ích đối với cộng đồng:
Nếu trong xã hội không ai tham lam, trộm cắp thì mọi người không cần phải đóng cửa, không cần phải giữ gìn của cải, không sợ mất đồ vật. Thật không gì sung sướng hơn! Người ta khổ vì thiếu của cải, nhưng người giàu có cũng vẫn lo lắng phải bảo quản. Người không trộm cắp là đã im lặng ban cho người khác sự yên ổn rồi.
Huống chi chúng ta là Phật tử lại đi trộm cướp chăng?
2.3 Giới thứ ba: Không được tà dâm
Tà dâm tức là nói về sự dâm dục phi lễ, phi pháp. Phật dạy người xuất gia cắt đứt hoàn toàn dục vọng, còn người tại gia thì không được dâm dục. Vì trong vạn tội ác, tà dâm đứng đầu.
Khi vợ chồng cưới đủ nghi lễ gọi là chính; ngoài ra, quan hệ ngoài luồng gọi là tà dâm. Nhưng nếu vợ chồng chính thức vẫn cứ ăn nằm không xứng đáng, gần gũi không đoán được, cũng thuộc loại tà dâm. Đó là nói về mặt tinh tế. Nói một cách khác, những ý niệm dâm dục, nghĩ suy không lành mạnh, lười biếng phóng túng, cũng đều thuộc về tà dâm.
Trong Kinh Đức Phật có dạy rằng: “Căn bản sinh tử, dục vi đệ nhất”, nghĩa là, nguồn gốc của sự sinh và sự chết chính là sự ham muốn sắc dục. Đức Phật muốn nhấn mạnh rằng, sự ham muốn sắc dục có một sức cuốn hút rất mạnh mẽ đối với con người. Nhiều nhà đạo đức và tâm lý học thường nhắc nhở con người phải biết kiềm chế sự ham muốn sắc dục để bảo vệ sức khỏe. Sự ham muốn sắc dục dẫn đến hành vi tà dâm, làm cho con người mãi mãi rơi vào vòng luân hồi đau khổ.
- Vì sao Phật giáo cấm tà dâm?
- Tôn trọng sự công bằng:
Mỗi người đều mong muốn gia đình mình hạnh phúc, yên vui, và vợ con của mình chính chắn. Vì vậy, làm sao lại đi phá hủy hạnh phúc gia đình, làm nhục nhã tôn giáo của người khác, dẫn vợ con người vào con đường tà dâm.
- Bảo vệ hạnh phúc gia đình:
Không gì đau khổ, đen tối hơn khi trong một gia đình có người chồng hoặc vợ có lòng dạ riêng tư, tà dâm. Hạnh phúc đâu còn khi chồng vợ không tin tưởng lẫn nhau?
Khi một gia đình rơi vào tình cảnh như vậy, thì con cái sẽ cảm thấy lúng túng, xấu hổ, cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn, và bà con không bao giờ quan tâm đến họ. Sự nghiệp thì đổ vỡ, làng xóm chê bai, danh dự mất đi. Điều quan trọng để giữ vững hạnh phúc gia đình là lòng chung thủy của cả hai vợ chồng.
Người ta thường nói: 'Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn'. Vì tà dâm của một trong hai người bạn đời mà trong gia đình thường xảy ra ghen tuông, cãi vã, thậm chí có thể dẫn đến vụ án mạng. Đôi khi để trả thù, người ta thường thấy câu 'Ông ăn chả, bà ăn nem' diễn ra.
Một người chồng hoặc vợ nếu để ý kiểm tra vợ chồng mình thì chính họ cũng sẽ bị vợ chồng họ phát hiện và sẽ làm hỏng hạnh phúc gia đình của người khác. Họ làm hỏng hạnh phúc gia đình người thì chính hạnh phúc gia đình họ cũng sẽ tan rã trước. Vì vậy, cấm tà dâm là điều kiện cần thiết để xây dựng hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người.
- Tránh oán thù và nhận quả báo xấu:
Đức Phật dạy: 'Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, ắt bị nạn cháy tay' (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).
Thật vậy, người có tâm xấu xa đắm chìm trong sắc dục sẽ dễ gặp phải tai hoạ, không những mất tài sản mà còn có thể mất mạng do súng, gươm. Suốt lịch sử, những hậu quả thảm khốc của sự đắm chìm trong sắc dục được ghi nhận rõ rệt trong sách vở lịch sử hay trên các trang báo hàng ngày.
Trong những mối oán thù, không có gì mãnh liệt hơn sự oán thù do lừa dối, phản bội trong tình ái. Các vụ án mạng thường xảy ra là do tà dâm gây ra.
- Lợi ích của việc không tà dâm
Giữ vững giới cấm tà dâm sẽ mang lại những lợi ích sau:
- Lợi ích với cá nhân:
Kinh Thập Thiện nói: 'Người thế gian khổ mị tà hạnh' thì sẽ được hưởng bốn điều lợi như sau:
+ Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được bảo vệ toàn vẹn.
+ Cả đời được người khác tôn trọng.
+ Được giải thoát hết mọi phiền muộn và sự quấy rầy.
+ Mối tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm.
- Lợi ích với đoàn thể:
Trong một xã hội hay trong một đoàn thể, nếu mỗi người đều giữ cho mình đức tính không tà hạnh, thì xã hội đó, đoàn thể đó sẽ không chỉ trong sạch vững mạnh mà còn tạo ra môi trường đối đãi với nhau bằng tình yêu thương thực sự, không bao giờ làm phiền đến hạnh phúc của người khác.
2.4 Giới thứ 4: Không được nói dối
Nói dối (vọng ngữ) là nói những điều không đúng sự thật với mục đích vì lợi ích cá nhân, gây hại người khác.
Nói sai sự thật có bốn cách: nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. Người có tâm nói dối thì lời nói và hành động của họ sẽ luôn mâu thuẫn.
- Nói dối (hay nói láo): là nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có; việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen, sau lưng chê; hay là khi ưa thì dịu ngọt thơm tho, khi ghét lại đắng cay chua chát. Tóm lại ý nghĩ lời nói việc làm trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài không nhất quán đều thuộc về nói dối cả.
- Nói thêu dệt: Là lời nói được thêm thắt vào so với sự thật khiến cho người nghe tức giận hoài nghi kẻ khác. Chuyện xảy ra không có gì đáng nói, nhưng vì tâm hiềm hận ta lại đem tâm nói thêu dệt thành chuyện lớn để cho giữa người với người ghét nhau, oán nhau, hận nhau…
- Nói lời hai chiều: hay nôm na hơn là nói 'đòn xóc hai đầu' nghĩa là đến chỗ này thì về hùa với bên này để nói xấu bên kia, đến bên kia thì hùa về bên ấy để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau trở lại chống nhau, kẻ ân người nghĩa chống đối, oán thù nhau.
- Nói lời hung ác: là nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chửi rủa thô tháo, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi.
- Vì sao Đức Phật cấm nói dối?
- Tôn trọng sự thật:
Đạo Phật là Đạo của sự thật; người tu theo Đạo Phật phải tôn trọng sự thật.
Đức Phật dạy, Ngài lập ra giới không nói dối này để dạy chúng ta không tạo nghiệp từ miệng, muốn hướng chúng ta đi đúng theo đạo đức, theo nhân cách của một con người. Ngài nhận thức rõ những hậu quả do nói dối gây ra, vì lòng từ bi mà Ngài hết lòng dạy bảo và khuyên nhủ chúng sinh, bao gồm cả đệ tử xuất gia và tại gia.
Người quen với sự dối trá, không biết tìm về sự thật thì khó có thể chứng quả được. Chúng ta đang sống trong vọng tưởng, công việc chính của người tu hành là cố gắng phá tan vọng tưởng đó để thấy được bản nguyên; nếu không làm được như thế mà trái lại còn chồng chất thêm cái vọng tưởng đó với những sự dối trá lừa phỉnh nữa, thì thật là vô cùng trái Đạo.
- Nuôi dưỡng lòng từ bi:
Cái động lực chính của sự dối trá là lòng ích kỷ, ác độc, muốn hại người để thỏa lòng dục vọng đen tối của mình. Người bị lừa dối, phỉnh gạt phải đau khổ vì mình, có khi phải mắc thù vương oán, có khi phải tán gia bại sản.
Người tu hành mà làm như thế là đã tán tận lương tâm, đã bóp chết tình thương trong lòng họ rồi. Một khi lòng từ bi không còn nữa, nghĩa là cái động lực chính đã mất, thì sự tu hành chỉ còn là giả dối, lừa bịp người và tất nhiên không bao giờ có kết quả tốt.
- Giữ gìn sự trung tín trong xã hội:
Trong một gia đình, một đoàn thể, một xã hội mà không ai tin ai, thì mọi công cuộc từ nhỏ đến lớn đều thất bại. Đạo Nho, Đức Khổng Tử có dạy: một trong năm đức tính căn bản là lòng tin: 'Nhân vô tín bất lập'. Hạnh phúc gia đình và xã hội không thể có được trong sự dối trá, nghi ngờ, đố kỵ.
- Tránh nghiệp báo khổ đau:
Lời nói tuy không phải là lưỡi kiếm nhưng nó nguy hiểm hơn lưỡi kiếm vì nó có hai mũi nhọn, một mũi đâm vào người khác và một mũi đâm vào chính người sử dụng nó.
Đức Phật dạy: 'Phù sĩ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn', nghĩa là: Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác. Đã đành nói ly gián nói xuyên tạc là để hại người, nhưng khi đã làm hại người thì thế nào người cũng hại lại. 'Ác lai ác báo' là thế. Để tránh sự thù hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên dối trá, điêu ngoa.
- Lợi ích của việc không nói dối:
- Về phương diện cá nhân:
Được người trọng nể, tin cậy, không ai oán hận thù hiềm; đi đâu cũng được người chung quanh dành cho một tình cảm thân tín, niềm nở đón tiếp. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được nhiều thân chủ và được giao phó cho nhiều trọng trách quý báu.
- Về phương diện đoàn thể:
Gia đình và xã hội được đoàn kết trong sự tin cậy. Mọi công cuộc chung được xúc tiến có kết quả tốt. Nhân loại thương yêu, thông cảm nhau hơn.
- Hạn chế của việc giữ giới không nói dối:
Nói dối là một tai hoạ lớn lao cho mình và xã hội. Tuy nhiên, cũng có vài trường hợp nên nói dối. Đó là khi nào vì lòng từ bi mà phải nói dối để cứu người hay vật. Nói dối phạm tội là trong trường hợp do lòng tham, sân, si làm động cơ thúc đẩy. Ngược lại nếu do lòng từ bi thúc đẩy mà phải nói dối thì không phạm tội.
2.5 Giới thứ 5: Không được uống rượu
Với giới thứ 5 thuộc ngũ giới trong đạo Phật, không được uống rượu, tất cả những thứ có chất men làm say người hay chất độc hại người đều không được ống.
Chính mình không uống đã đành mà cũng không được ép người khác uống, ép nài, khuyến khích người khác uống, tội lại nặng hơn cả chính mình uống nữa.
Lúc lâm bệnh nặng, uống các thứ thuốc không lành, lương y phải dùng rượu “hoà vào thuốc thì tạm dùng. Nhưng trước khi dùng phải nói rõ cho chúng Tăng biết. Khi hết bệnh, không được tiếp tục uống thuốc có hoà rượu ấy nữa”.
- Vì sao Đức Phật cấm uống rượu?
- Bảo toàn hạt giống trí tuệ:
Vì sao cửa nhà Phật cấm rượu? Rượu còn nguy hiểm hơn thuốc độc. Một chén thuốc độc ta uống vào chết ngay, nhưng chỉ chết một thân hiện tại chứ rượu uống vào làm mất giống trí tuệ, phải chết đi sống lại vô số kiếp. Vì thế, để bảo toàn hạt giống trí tuệ quý báu nên Đức Phật cấm uống rượu.
- Ngăn ngừa những nguyên nhân sinh ra tội lỗi:
Bản thân rượu không phải là một tội lỗi như sát sinh, trộm cắp, tà dâm nhưng nó có thể trở thành nguyên nhân sinh ra những tội lỗi kia. Khi con người đã uống rượu vào say sưa thì tội nào cũng có thể phạm được.
Theo lời Phật dạy, rượu gây ra rất nhiều tội lỗi. Sau đây là 10 tai hại của rượu mà trong kinh đã nói đến:
+ Của cải mất đi.
+ Lòng giết hại gia tăng.
+ Trí tuệ suy giảm.
+ Sự nghiệp không thành công.
+ Thân tâm gặp nhiều khổ đau.
+ Gặp phải nhiều tật bệnh.
+ Tâm sân hận tranh cãi, gây gổ.
+ Phúc đức mòn mỏi.
+ Tuổi thọ giảm sút.
+ Mạng sống rơi vào địa ngục.
- Lợi ích của việc cấm uống rượu:
- Về phương diện cá nhân:
Những ai không sử dụng rượu sẽ tránh được 10 điều bất lợi như mất tiền, ít bệnh tật, tránh gây ra hệ lụy xấu, giết người, làm mất bình tĩnh, thông minh sẽ phát triển, và sống lâu hơn vân vân...
- Về phương diện đoàn thể:
Gia đình sẽ yên vui, con cái ít bệnh tật, xã hội hòa thuận, dòng dõi sẽ phát triển mạnh mẽ hơn.
3. Cách áp dụng Ngũ Giới trong đời sống hàng ngày

Sau khi hiểu về Ngũ Giới là gì trong Đạo Phật, việc áp dụng và thực hành chúng trong cuộc sống thường nhật là một phần không thể thiếu của con đường tâm linh của người Phật tử. Dưới đây là một số khía cạnh về cách áp dụng và thực hành Ngũ Giới:
- Không giết người: Để thực hành giới luật này, người Phật tử cần luôn tôn trọng mọi hình thức sống. Họ tránh việc giết người và thường xuyên thực hiện các hành động từ bi như cứu trợ động vật hoặc hỗ trợ các tổ chức bảo vệ động vật.
- Không ăn cắp: Để áp dụng giới tài sản, người Phật tử nên tuân thủ nguyên tắc trung thực trong tài chính. Họ không lấy cắp hoặc chiếm đoạt tài sản của người khác và luôn đối xử công bằng trong các giao dịch và vấn đề tài chính.
- Không tà dâm: Giới tình dục yêu cầu sự tôn trọng và đạo đức trong mối quan hệ tình dục. Người Phật tử cần cân nhắc về việc thực hành tình dục theo đúng đạo đức và luôn tôn trọng sự đồng ý của đối phương.
- Không vọng ngôn: Để thực hành giới nói dối, người Phật tử nên luôn nói sự thật và tránh nói dối. Họ tránh phỉ báng và sử dụng từ ngữ có hại trong giao tiếp, thường xuyên thể hiện lòng từ bi và lắng nghe tôn trọng.
- Không uống rượu: Thực hiện giới rượu bia và chất gây nghiện bằng cách tránh sử dụng các chất gây nghiện như rượu, thuốc lá và các loại chất làm mất ý thức. Chúng ta phải thể hiện tư duy tỉnh thức và quyết tâm đảm bảo tâm trí và sức khỏe của chúng ta.
4. Có bắt buộc phải giữ Ngũ Giới?
- Người Phật tử không tuân giới không thể coi là Phật tử
Chúng ta đã nhận thấy lợi ích thực tế của Ngũ Giới đối với cá nhân và cộng đồng. Nếu Tam quy là nền tảng, thì Ngũ Giới là năm bậc thang mà Phật tử gia đình dùng để tiến bước tới Phật quả.
Ở giai đoạn đầu tiên, nếu người Phật tử có thể giữ cả Năm giới thì tốt hơn; nếu vì nhiều ràng buộc mà không thể giữ được cả Năm giới, thì có thể giữ vài giới mà mình cảm thấy có thể thực hành được như: không uống rượu, không nói dối.
Rồi với lòng quyết tâm và Bồ đề tâm mạnh mẽ, chúng ta tiếp tục phát nguyện giữ thêm những giới khác như không trộm cắp, không tà dâm... Nhưng đã phát nguyện giữ giới nào thì phải giữ vững, không được tiến lùi, không nên lưỡng lự mãi không thể tiến bộ đến đích.
Nếu một người Phật tử không thể giữ được bất kỳ giới nào, thì làm sao có thể gọi là Phật tử?
Người bình thường, không theo đạo Phật nhưng vẫn có thể giữ những phẩm giới như không uống rượu, không trộm cắp, liệu họ có thể coi là Phật tử?
Chúng ta tiến vào đạo Phật với mong muốn vượt lên hơn cuộc sống bình thường của người thường. Nếu đã bước vào Đạo mà vẫn sống cuộc sống bình thường như trước, thậm chí còn tồi tệ hơn cuộc sống thông thường của người thường, thì đó là làm bẩn Đạo, chứ không phải là ngưỡng mộ Đạo.
Do đó, người Phật tử cần phấn đấu giữ giới để xứng đáng với danh nghĩa mình, mang lại hạnh phúc cho chính mình và cho chúng sinh.
- Người không theo đạo Phật cũng nên giữ giới
Năm giới cấm không có gì là cao siêu, thần bí. Đó là những bài học về công dân thông thường mà mọi xã hội, mọi quốc gia mong muốn thịnh vượng, mạnh mẽ không thể bỏ qua.
Vì vậy, năm nguyên lý đó không chỉ áp dụng riêng cho Phật tử mà còn áp dụng chung cho tất cả những ai muốn sống cuộc sống lành mạnh, hạnh phúc, có đạo đức và tiến bộ.
Một xã hội mà tất cả mọi người đều tuân thủ được năm nguyên lý đó, thì đó là một xã hội gương mẫu, công bằng, văn minh và phát triển nhất thế giới.