Một phần của loại bài về |
Phật giáo |
---|
Lịch sử[hiện] |
Khái niệm[hiện] |
Kinh điển[hiện] |
Tam học[hiện] |
Niết-bàn[hiện] |
Tông phái[hiện] |
Ở các nước[hiện] |
Cổng thông tin Phật giáo |
Năm uẩn (zh. wǔyùn 五蘊, sa. pañca-skandha, pi. pañca-khandha, bo. phung po lnga ཕུང་པོ་ལྔ་) hay còn gọi là Năm ấm (五陰), là năm (pañca) nhóm (skandha) biểu thị năm yếu tố cấu thành con người, bao gồm cả thân và tâm. Không có gì ngoài năm uẩn này để gọi là 'ta'.
Các uẩn bao gồm:
- Sắc uẩn (zh. 色; sa., pi. rūpa), đại diện cho sự nhận thức về cơ thể và sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), được hình thành từ bốn nguyên tố (sa., pi. mahābhūta), đó là đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo ra các giác quan và đối tượng của chúng. Cái biết của sắc uẩn gọi là sắc thức, bao gồm sáu loại ý thức liên quan đến sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sắc thức phụ thuộc vào sự tiếp xúc của sáu giác quan với sáu trần để hình thành sáu thức. (Các vị Bhikkhu, sắc là gì? Là cái bị thay đổi, các vị Bhikkhu, nên gọi là sắc. Bị thay đổi bởi cái gì? Bị thay đổi bởi lạnh, nóng, đói, khát, sự tiếp xúc của ruồi, muỗi, gió, sức nóng và rắn. Bị thay đổi, các vị Bhikkhu, nên gọi là sắc.)
- Thọ uẩn (zh. 受, sa., pi. vedanā), là toàn bộ cảm giác và sự cảm nhận về sự thay đổi xung quanh, không phân biệt là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. (Các vị Bhikkhu, thọ là gì? Là cảm nhận được, các vị Bhikkhu, nên gọi là thọ. Cảm nhận gì? Cảm nhận vui, cảm nhận khổ, cảm nhận không vui không khổ. Cảm nhận được, các vị Bhikkhu, nên gọi là thọ.)
- Tưởng uẩn (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā) là khả năng nhận biết sự khác biệt, như phân biệt màu sắc, mùi vị... (Các vị Bhikkhu, tưởng là gì? Là nhận thức rõ, các vị Bhikkhu, nên gọi là tưởng. Nhận thức rõ điều gì? Nhận thức rõ màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng. Nhận thức rõ, các vị Bhikkhu, nên gọi là tưởng.)
- Hành uẩn (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), là sự ý định, suy tính, cân nhắc trước khi quyết định. Hành bao gồm tất cả các động cơ trước khi một hành động được thực hiện. Hành là đối tượng hình thành nghiệp thiện và ác. (Gồm Thân hành, Khẩu hành, Ý hành) (Các vị Bhikkhu, hành là gì? Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi nên gọi là hành. Làm cho hiện hành cái gì? Làm cho hiện hành sắc với sắc tính, thọ với thọ tính, tưởng với tưởng tính, hành với hành tính, thức với thức tính. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi, các vị Bhikkhu, nên gọi là các hành.)
- Thức uẩn (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa) là sự nhận thức qua sự mặc định, như mặc định cái này chua, cái kia đắng, cái nọ đỏ, cái kia nóng, cái này lợi, cái kia không lợi... Đây cũng là sự chuyển tiếp của tưởng uẩn và hành uẩn, từ cảm nhận sự khác biệt rồi suy nghĩ về mức độ khác biệt, đến việc đặt tên cho các sự vật, hiện tượng... (Các vị Bhikkhu, thức là gì? Là rõ biết, các vị Bhikkhu, nên gọi là thức. Rõ biết điều gì? Rõ biết chua, đắng, cay, ngọt, kiềm... rõ biết không phải kiềm, mặn, không mặn. Rõ biết, các vị Bhikkhu, nên gọi là thức.)
Ngũ uẩn còn được gọi là năm ràng buộc vì chỉ có Đức Phật hoặc Arahant mới không bị trói buộc bởi chúng. Đặc tính chung của chúng là Vô thường, Vô ngã và Khổ. Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh nhấn mạnh tính Không của năm uẩn.
Tính chất khổ và sự vô thường của năm uẩn là một trong những nguyên lý cơ bản trong Phật giáo. Khổ sinh ra từ lòng tham, sự thiếu hiểu biết về tính vô thường của năm uẩn và sự không ổn định của chúng; con người, được cấu thành từ năm uẩn, chỉ là một kết hợp giả tạm, không có một cái 'ta' thực sự đứng sau (Vô ngã). Hiểu biết về tính vô ngã của năm uẩn là một tri thức quan trọng có thể dẫn đến sự giải thoát. Đại sư người Đức Nyānatiloka đã nhấn mạnh tầm quan trọng của điều này như sau:
- 'Cuộc sống của chúng ta thực chất chỉ là một chuỗi các hiện tượng tâm lý và thể xác, chuỗi hiện tượng này đã hoạt động qua nhiều kiếp trước khi chúng ta sinh ra và sẽ tiếp tục vô hạn sau khi chúng ta ra đi. Dù là từng uẩn riêng lẻ hay tổng hợp lại, năm uẩn không tạo ra một cái gì gọi là cái ta. Ngoài chúng ra, không có cái gì gọi là một bản ngã độc lập với chúng để chúng ta gọi là cái ta. Niềm tin vào một cái ta độc lập chỉ là một ảo tưởng.'
|
|
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Đài Bắc: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Liên kết bên ngoài
- Phật học cơ bản, Phần I - Bài 2: Năm Uẩn (2002)
- Đại Tạng Kinh Việt Nam, T3 - Chương 1: Tương Ưng Uẩn (1993)