
Tôi vừa đọc xong cuốn sách Chiến binh cầu vồng của Andrea Hirata. Dù biết về cuốn sách này từ lâu nhưng tôi chỉ dám mượn để đọc khi...
Tôi vừa đọc xong cuốn sách Chiến binh cầu vồng của Andrea Hirata. Mặc dù biết về cuốn sách này từ lâu nhưng chỉ khi tình cờ thấy nó trên kệ sách ở nhà một người bạn, tôi mới quyết định mượn về đọc. Vì tính tôi không thích mượn lâu dài nên tôi cố gắng đọc nhanh rồi trả sách. Kết quả là tôi đọc hết hơn 400 trang sách trong vòng 2 ngày, một tốc độ không quá tồi.
Khoảng 200 trang đầu, người kể chuyện Ikal mang lại cho tôi cảm giác như đây là Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh phiên bản Indonesia. Cách viết mượt mà, tác giả trở lại dưới hình hài một cậu nhóc mang sách đi học. Những câu chuyện nhỏ xíu được tổ chức thành từng chương, từng đoạn ký ức tuổi thơ hiện về trong tâm trí, những ngày hạnh phúc bên thầy cô, trường học, bạn bè…
Câu chuyện bắt đầu tại buổi lễ khai giảng đầu năm của ngôi trường nghèo Muhammadiyah trên đảo Belitung, Indonesia. Belitung nổi tiếng với lượng thiếc dồi dào, nhưng lợi nhuận lại bị công ty khai mỏ quốc gia – được gọi trong truyện là PN, chiếm hết, đồng thời cũng điều hành một trường học sang trọng – trường PN, được tác giả miêu tả như là đối thủ của trường Muhammadiyah. Cuốn sách là câu chuyện tự sự của nhân vật Ikal, một học sinh tại Muhammadiyah và hành trình tiến tới nền giáo dục mơ ước của cậu.
Muhammadiyah là một ngôi trường nghèo với lịch sử hơn 100 năm, là nơi các phụ huynh nghèo trên đảo gửi con em tới học, cũng là nơi chúng được dạy bởi những giáo viên có hoàn cảnh kinh tế không khác gì cha mẹ chúng. Cả giáo viên và học sinh đều phải làm thêm ngoài giờ học mới đủ sống. Hơn nữa, các giáo viên tại Muhammadiyah không được trả lương, tất cả đều dựa vào tinh thần tự nguyện tự giác. Ngôi trường chỉ có 10 học sinh ban đầu, sau này tăng thêm thành 11, được hỗ trợ bởi hai thầy cô chủ chốt là cô Mus và thầy Harfan. Trong câu chuyện, tác giả gọi 11 học sinh này là các Chiến binh Cầu vồng.
Giấc mơ học tập của 11 đứa trẻ tại ngôi trường làng ấy đã nhiều lần bị thử thách. Cơ sở vật chất nghèo nàn, sự chèn ép từ công ty mỏ, sự thờ ơ của chính quyền, nhưng trên hết là cám dỗ của những đồng tiền ít ỏi từ công việc cu li. Cái đói và cái nghèo luôn rình rập, giáo dục trở nên xa vời. Một nền giáo dục mà việc làm cu li hái tiêu hay đốn trầm hương có thể kiếm đủ tiền để mua một chiếc xe đạp mới, trong khi hiệu trưởng trường tiểu học lại phải tích góp từng đồng để thay xích xe. Một nền giáo dục như chỉ chờ sơ suất của học sinh để đẩy chúng trở lại vòng xoáy nghiệt ngã của kiếp sống dân đen thấp cổ bé họng, thực tại mà chúng đang cố gắng thoát ra. Một nền giáo dục như vậy, hỏi ai mà không xót xa?
Ngày thằng lớp trưởng Kucai bỏ học để đi hái tiêu ở đồn điền toàn thời gian – cô Mus phải vật vã tích góp từng đồng từ việc may vá để thuê thuyền đến đón nó về. Cô đạp xe hàng chục cây số vào đồn điền sâu thẳm để tìm Kucai. “Cô tìm đứa học trò của mình giữa hàng trăm đứa trẻ vị thành niên đang hái tiêu thuê ở đó; không đứa nào từng đi học”, Hirata viết. Phải vài ngày sau cô mới chuộc được Kucai về. Mặt mũi lem nhem, xấu hổ khi đứng trước bạn bè, nó òa khóc. Đối với cô Mus, “chỉ mất một học trò thôi là coi như cô mất cả nửa linh hồn”. Vì vậy, cô phải thuyết phục từng đứa quay lại trường học. Sau mọi biến cố, lớp học vẫn nguyên vẹn 11 thành viên.
Thầy Harfan và cô Mus là những tấm gương nhà giáo mà chúng ta ao ước. Họ là những con người nhỏ bé nhưng mang trái tim vĩ đại. Họ nghèo khổ nhưng tâm huyết với nghề. Họ chính là người đã thắp sáng và giữ cho ngọn đèn giáo dục khỏi vụt tắt tại ngôi trường xập xệ đó. Họ truyền cho 11 Chiến binh Cầu vồng tinh thần cống hiến hết sức mình. Tại ngôi trường nghèo khó Muhammadiyah, Ikal cùng các bạn đã có một tuổi thơ đẹp đẽ, những tình bạn trong sáng, những bài học đạo đức vô giá sẽ đồng hành cùng họ suốt quãng đời trưởng thành.
Sau tất cả, mọi cố gắng cũng không cứu được Muhammadiyah khỏi việc biến mất khỏi bản đồ Indonesia, mà thật ra nó chưa từng xuất hiện trên đó. Tài năng của Lintang và Mahar, sự cống hiến của thầy Harfan và cô Mus và mọi nỗ lực của họ nhằm giữ vững nền giáo dục cho con em nghèo ở đảo Belitung cuối cùng cũng khuất phục trước hiện thực cuộc sống. Màn kịch tuổi thơ của 11 Chiến binh Cầu vồng đến hồi kết thúc.
A Kiong, cậu bé với cái đầu hộp trở thành chủ cửa hàng thay vì thuyền trưởng, Sahara trở thành vợ của A Kiong thay vì một nhà nữ quyền, Samson trở thành cu li khuân vác, Trapani vào trại thương điên. Harun, cậu bé thiểu năng trí tuệ từng cứu trường Muhammadiyah vào ngày khai giảng, vẫn giữ nụ cười ngờ nghệch và nỗi ám ảnh về số 3. Lintang, người đứng đầu nhóm, cuối cùng vẫn an phận với cuộc sống lao động chân tay thay vì trở thành nhà khoa học mà cậu từng mơ ước. Cơn sóng cuộc đời đã cuốn trôi hết khát vọng của lũ trẻ trên đảo Belitung, nhấn chìm chúng dưới đáy sâu của sự quên lãng mang tên “mưu sinh” đầy nghiệt ngã.
Cuốn sách này để lại trong tôi một cảm giác bứt rứt khó tả. Có lẽ vì cái kết không mấy có hậu. Từng câu văn như được cô đặc từ dòng hồi tưởng của tác giả và đọng lại thành con chữ trên trang giấy, đọc tới đâu bồi hồi tới đó. Chiến binh Cầu vồng là một áng văn tuyệt mỹ, một cuốn tự truyện chân thực về một quãng hoài niệm đã xa – nay chỉ còn vương vấn trong ký ức.
Tôi nhất định phải viết dài về Lintang.
Lintang không phải là nhân vật chính trong câu chuyện này, nhưng cậu là nhân vật nổi bật nhất và để lại nhiều cảm xúc nhất. Là con trong một gia đình ít học, Lintang là niềm hy vọng của cả nhà. Mỗi ngày, cậu đạp xe 80 cây số cả đi lẫn về để đến trường, băng qua một khúc sông đầy cá sấu. Nói cách khác, mỗi ngày Lintang đều đánh cược mạng sống để được đi học.
Lintang học rất chăm chỉ và giỏi giang. Trong khi các bạn còn vật lộn với từng phép tính nhân chia, cậu đã thông thạo tích phân, đạo hàm mà không cần máy tính. Lintang nhanh chóng trở thành ngôi sao của ngôi trường nghèo khó, là cánh chim đầu đàn dẫn dắt 9 đứa trẻ còn lại tiến lên. Nhờ Lintang, ngôi trường nhỏ Muhammadiyah có một vị trí trên bản đồ. Nhờ Lintang, nhân vật chính của chúng ta – Ikal và các bạn biết mơ ước. Từng đứa trẻ bắt đầu có những khát khao riêng, khát khao được vươn lên khỏi đường ray số phận mà chúng được trao từ lúc mới sinh. Cha mẹ chúng làm cu li, ông bà chúng cũng làm cu li, nên chúng sẽ lớn lên và trở thành cu li. Cái đói, cái nghèo đi liền với thất học, chắc chắn như một định lý Toán học của Pascal. Và cậu bé làng chài nhỏ nhắn, cậu bé từng phải bán nhẫn cưới của mẹ để mua xích xe đạp mới – chính là người thách thức định lý ấy. Ánh sáng tri thức mà Lintang mang lại đã dạy Ikal mơ ước trở thành nhà văn, Kucai thì muốn trở thành chính trị gia còn Sahara thì mong được đứng trong hàng ngũ đấu tranh cho quyền phụ nữ. Vậy ước mơ của Lintang là gì? Cậu muốn trở thành nhà toán học. Cậu thừa sức trở thành nhà toán học, chỉ tiếc thay ước mơ ấy lại bị hiện thực nghiệt ngã vùi dập.
