
Tên tiếng Trung | |||
---|---|---|---|
Phồn thể | 夫人 | ||
Giản thể | 夫人 | ||
| |||
Tên tiếng Nhật | |||
Kanji | 夫人 | ||
Kana | ふじん·ぶにん | ||
Tên tiếng Triều Tiên | |||
Hangul | 부인 | ||
Hanja | 夫人 | ||
|
Phu nhân (chữ Hán: 夫人, tiếng Anh: Lady hoặc Madame) là một danh hiệu dành cho vợ của một người đàn ông có địa vị. Từ 'Phu nhân' trong tiếng Việt còn gọi là Quý bà, Bà chủ hoặc Lệnh bà.
Trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam, Phu nhân là cấp bậc, danh phận của phi tần trong cung đình. Ngày nay, đây là danh hiệu tôn kính dành cho phụ nữ, thường được sử dụng để chỉ bất kỳ người phụ nữ trưởng thành nào. Theo chế độ Mệnh phụ từ thời nhà Tống, Phu nhân là danh hiệu cao nhất của một mệnh phụ.
Lịch sử
Trung Quốc
Từ thời nhà Chu, Lễ ký - Hôn nghi ghi lại chế độ nội cung như sau: 'Noi gương cổ nhân dưới Hậu, Thiên tử lập sáu cung, lấy ba Phu nhân, chín Tần, hai mươi bảy Thế phụ, tám mươi mốt Ngự thê'. Lúc bấy giờ thiên tử xưng Vương, vợ chính phong Vương hậu, dưới Vương hậu là hàng [Phu nhân] gồm có ba người, luận bàn về lễ độ, đức hạnh của bậc hiền phụ. Ngoài ra, chính thê của chư hầu cũng gọi Phu nhân, nhưng tương đối phức tạp một chút, theo chương thứ 16, Quý thị thiên (季氏篇) của sách Luận ngữ có viết rằng: 'Thê tử của Quốc quân, bản thân Quốc quân gọi Phu nhân, Phu nhân tự xưng Tiểu Đồng, người trong nước ấy gọi là Quân phu nhân, nói với người nước khác thì gọi là Quả Tiểu quân, mà người nước khác cũng gọi là Quân phu nhân'.
Thời Tây Hán, phong hiệu [Phu nhân] là cách gọi các phi tần nói chung dưới Hoàng hậu, về sau lại có thêm Mỹ nhân, Lương nhân, Bát tử,... làm cho hệ thống phi tần có thứ bậc rõ hơn. Dưới thời Hán Vũ Đế sửa lại thêm Tiệp dư, Khinh nga, Dung hoa, Sung y,... tuy nhiên vẫn dùng [Phu nhân] như một kiểu nhã xưng, ví dụ như Triệu tiệp dư, sinh mẫu của Hán Chiêu Đế thường được gọi là [Câu Dặc phu nhân] do bà ở Câu Dặc cung. Các vị Hoàng đế sau thời đại của Hán Vũ Đế từ đó không còn sử dụng tước [Phu nhân] để gọi các phi tần.
Năm 1983, phát hiện lăng mộ của Nam Việt Triệu Văn Đế - thời đại gần với Hán Vũ Đế. Tại đây, các sử gia phát hiện có ghi chép hậu cung tần phi của Nam Việt, đều dùng danh hiệu Phu nhân tương tự nhà Hán, như Hữu phu nhân; 右夫人, Tả phu nhân; 左夫人, Thái phu nhân; 泰夫人 và Khẩu phu nhân; 口夫人.
Đến thời Tam Quốc thì Thục Hán và Đông Ngô duyên dụng, triều đình Tào Ngụy ban đầu liệt [Phu nhân] chỉ dưới Hoàng hậu, sau đó lại thiết lập thêm Quý tần đặt trên [Phu nhân]. Thời nhà Tấn thừa kế phần lớn thể chế của Tào Ngụy, đem [Phu nhân] cùng [Quý tần] và Quý nhân xưng gọi Tam phu nhân; 三夫人, từ đó hành thành nên cụm danh hiệu Tam phu nhân như một dạng vinh hàm trong hệ thống hậu cung.
Thời Nam Bắc triều, Bắc Ngụy thiết [Tam phu nhân] dưới chức Tả Hữu Chiêu nghi và trên chức Tần. Triều Bắc Tề thiết Tam phu nhân gồm: Hoằng Đức (弘德), Chính Đức (正德) và Sùng Đức (崇德), dưới bậc Hoàng hậu và Chiêu nghi, vị ngang với Tam công; sau lại đặt thêm Thục phi; 淑妃 cùng Nga Anh; 娥英, vị trí Tam phu nhân ở bậc thứ 4 trong hậu cung. Triều Bắc Chu, hệ thống hậu cung phức tạp, có thiết lập Tam phu nhân dưới vị trí Hoàng hậu, bao gồm: Quý phi; 貴妃, Trưởng Quý phi; 長貴妃 và Đức phi; 德妃, vị ngang với Tam công. Nam triều Lưu Tống thừa hưởng quy chế nhà Tấn, nhưng đại để đã có sự giản lược, đến thời Lưu Tống Minh Đế thiết Quý phi, Quý tần cùng Quý cơ xưng gọi Tam phu nhân. Thời nhà Tùy, định hàng Phu nhân gồm 3 chức: Quý phi, Thục phi và Đức phi, vị Chính nhất phẩm. Từ đó, nhà Đường thiết đặt hậu cung, cách gọi [Phu nhân] là cách khác để ám chỉ hàng Phi.
Trong thời kỳ nhà Tống và nhà Minh, danh hiệu [Phu nhân] được sử dụng để phong cho các ngoại mệnh phụ như [Quốc phu nhân; 國夫人] và [Quận phu nhân; 郡夫人].
Ở Nhật Bản, thời Asuka, Thiên hoàng Tenmu đã thiết lập hậu cung với vị trí [Phu nhân] dưới [Phi], có ba người cùng thời.
Thời Heian, danh hiệu [Phu nhân] vẫn được sử dụng cho hậu cung trước khi bị Thiên hoàng Junna phế trừ ở Nhật Bản. Ở Vương quốc Lưu Cầu, hậu cung có chính thất là Vương phi, và các hàng thiếp là [Phu nhân].
Tại Hàn Quốc, thời Cao Câu Ly đã thiết lập quy chế hậu cung với [Chính phu nhân; 正夫人], [Trung phu nhân; 中夫人], và [Tiểu phu nhân; 小夫人] là ba vị [Phu nhân] khác nhau.
Ở Việt Nam, trong thời nhà Lý và nhà Trần, [Phu nhân] được sử dụng như một vị hiệu của phi tần, ví dụ như Ỷ Lan từng là Phu nhân. Linh Chiếu Thái hậu, mẹ của Lý Anh Tông, được biết đến với danh hiệu [Cảm Thánh phu nhân; 感聖夫人].
Trong thời kỳ Triều Tiên trị vì ở Hàn Quốc và nhà Hậu Lê của Việt Nam, cả hai triều đại này đều áp dụng quy chế của nhà Minh, vị [Phu nhân] chỉ còn là danh hiệu của vợ hoàng đế.
Các nhân vật nổi tiếng
Trung Quốc
- Hoa Dương - Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương, mẹ của Tần Thủy Hoàng.
- Thích phu nhân - sủng phi của Hán Cao Tổ.
- Bạc phu nhân - phi tần của Hán Cao Tổ, là mẹ của Hán Văn Đế. Đây là người phụ nữ đầu tiên được phong làm Thái hoàng thái hậu trong lịch sử Trung Quốc.
- Vệ Tử phu - Hoàng hậu thứ hai của Hán Vũ Đế, được biết đến với danh hiệu Vệ phu nhân.
- Lý phu nhân - sủng phi của Hán Vũ Đế.
- Chân Lạc - chính thất của Tào Ngụy Văn Đế, là mẹ của Tào Ngụy Minh Đế. Thường được gọi là Chân phu nhân, là một trong những mỹ nhân nổi tiếng nhất thời đại.
- Trần Tuyên Hoa - công chúa Nam Trần, sau là sủng phi của Tùy Văn Đế và Tùy Dạng Đế, được phong làm Tuyên Hoa phu nhân.
- Hoa Nhị phu nhân - sủng phi của Hậu Thục Mạnh Sưởng, được biết đến với danh hiệu Thục trung Tứ đại tài nữ.
- Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận - chị của Võ Tắc Thiên. Người tình của Đường Cao Tông, được cho là đã sinh mẫu cho Phế thái tử Lý Hiền.
- Ngụy Quốc phu nhân Hạ Lan thị - con gái của Võ Thuận và cháu của Võ Tắc Thiên. Người tình của Đường Cao Tông, rất được sủng ái.
Việt Nam
- Ỷ Lan - người phụ nữ quan trọng trong triều Lý, là mẹ của Lý Nhân Tông. Được vinh danh với danh xưng Phu nhân Ỷ Lan.
- Linh Chiếu Thái hậu - phi tần của Lý Thần Tông, là mẹ của Lý Anh Tông. Được biết đến với danh hiệu Cảm Thánh phu nhân.
- Phụng Thánh phu nhân - phi tần của Lý Thần Tông, là em gái của Linh Chiếu Thái hậu.
- Thuận Trinh Hoàng hậu - Hoàng hậu của Lý Huệ Tông và là người cuối cùng mang dòng máu nhà Lý, là mẹ của Lý Chiêu Hoàng. Từng được gọi với danh xưng Thuận Trinh phu nhân.
- Thiên Cảm hoàng hậu - Hoàng hậu của Trần Thánh Tông, là mẹ của Trần Nhân Tông. Được vinh danh với danh hiệu Thiên Cảm phu nhân.
- Nguyễn Thị Bích Châu - được cho là sủng phi của Trần Duệ Tông, trong thời nhà Lê được biết đến với danh xưng Chế Thắng phu nhân. Bà được xem là một nhân vật huyền thoại, vinh danh qua câu chuyện dân gian và được thờ cúng.
Chuyển ngữ sang tiếng phương Tây
Ở các quốc gia nói tiếng Anh, danh xưng tương đương với phu nhân là [Lady] hoặc [Madame]. Tuy nhiên, [Lady] ở tiếng Anh thường chỉ dành cho phụ nữ đã kết hôn, phụ nữ lớn tuổi hoặc các thiếu nữ, không giới hạn như [Phu nhân], trong khi [Madame] là từ tiếng Pháp.
Vào thời kỳ Trung Cổ và trước đó, [Lady] chỉ dành cho các phụ nữ quý tộc. Trong thời điểm này, các tước vị như Công tước, Bá tước,... chưa có danh hiệu tương ứng nữ giới, và các phu nhân hoặc chủ nhân nữ của tước vị đó thường được gọi đơn giản là ['Lady'] cùng với tước hiệu hoặc họ của họ. Các vương nữ - con gái của các vị vua Anh trong thời gian này thường được gọi là [Lady] (có thể dịch là 'Công chúa'), ví dụ như Lady Mary, Lady Elizabeth,... thay vì [Princess], bởi vì cho đến khi George I của Anh lên ngôi, ông đã quy định sử dụng [Prince] cho các vương tử nam hoặc con cháu trực thuộc 3 đời của một vị quân chủ, và [Princess] dành cho các vương nữ, kèm theo danh hiệu hoàng gia ['Royal Highness'].
- Tất cả các trang có tiêu đề chứa 'phu nhân'
- Mệnh phụ
- Câu Dặc phu nhân
- Lý phu nhân (Hán Vũ Đế)
- Từ điển Merriam Webster về Sử dụng Tiếng Anh (Merriam-Webster, 1989), ISBN 0-87779-132-5.