














Nguyễn Văn Toàn | |
---|---|
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn | |
Chức vụ | |
Tư lệnh Quân đoàn III | |
Nhiệm kỳ | 1/1975 – 29/4/1975 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Tiền nhiệm | -Trung tướng Dư Quốc Đống |
Kế nhiệm | Sau cùng |
Vị trí | Quân khu III |
Tư lệnh phó 1 Tư lệnh phó 2 Tư lệnh phó 3 Tham mưu trưởng | -Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi (kiêm Tư lệnh Tiền phương, Đặc trách Kế hoạch Hành quân) -Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu (Đặc trách Kế hoạch Hành quân đến ngày 8/4/1975) -Thiếu tướng Đào Duy Ân (Đặc trách Lãnh thổ Quân khu) -Chuẩn tướng Lê Trung Tường |
Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp (Lần thứ hai) | |
Nhiệm kỳ | 10/1974 – 29/4/1975 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Tiền nhiệm | -Chuẩn tướng Lý Tòng Bá |
Kế nhiệm | Sau cùng |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Chỉ huy phó Phụ tá CHT Tham mưu trưởng | -Đại tá Thẩm Nghĩa Bôi -Đại tá Lương Bùi Tùng -Đại tá Nguyễn Đức Dung |
Tư lệnh Quân đoàn II | |
Nhiệm kỳ | 5/1972 – 10/1974 |
Cấp bậc | -Thiếu tướng -Trung tướng (3/1974) |
Tiền nhiệm | -Trung tướng Ngô Dzu |
Kế nhiệm | -Thiếu tướng Phạm Văn Phú |
Vị trí | Quân khu II |
Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp (Lần thứ nhất) | |
Nhiệm kỳ | 2/1972 – 5/1972 |
Cấp bậc | -Thiếu tướng |
Tiền nhiệm
| -Đại tá Phan Hòa Hiệp |
Kế nhiệm | -Đại tá Dương Văn Đô |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh | |
Nhiệm kỳ | 1/1967 – 2/1972 |
Cấp bậc | -Chuẩn tướng (6/1968) -Thiếu tướng (11/1970) |
Tiền nhiệm | -Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm |
Kế nhiệm | -Đại tá Phan Hòa Hiệp |
Vị trí | Vùng 2 chiến thuật |
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Đà Nẵng (Lần thứ hai) | |
Nhiệm kỳ | 12/1964 – 1/1967 |
Cấp bậc | -Trung tá (11/1965) -Đại tá (1/1967) |
Tiền nhiệm | -Trung tá Nguyễn Tuấn |
Kế nhiệm | -Thiếu tá Phan Hòa Hiệp |
Vị trí | Vùng 1 chiến thuật |
Chỉ huy trưởng Trường Thiết giáp tại Long Hải, Phước Tuy | |
Nhiệm kỳ | 6/1963 – 12/1964 |
Cấp bậc | -Thiếu tá |
Tiền nhiệm | -Thiếu tá Dương Văn Đô |
Kế nhiệm | -Trung tá Lâm Quang Thơ |
Vị trí | Vùng 3 chiến thuật |
Tham mưu trưởng BCH Thiết giáp Trại Trần Hưng Đạo, Tân Sơn Nhất, Gia Định | |
Nhiệm kỳ | 1/1961 – 6/1963 |
Cấp bậc | -Thiếu tá |
Vị trí | Vùng 3 chiến thuật |
Chỉ huy trưởng | -Trung tá Nguyễn Văn Thiện |
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Huế (Lần thứ nhất) | |
Nhiệm kỳ | 7/1957 – 1/1959 |
Cấp bậc | -Đại úy (12/1956) -Thiếu tá (1/1959) |
Tiền nhiệm | -Đại úy Nguyễn Đình Bảng |
Kế nhiệm | -Đại úy Nguyễn Tuấn |
Vị trí | Vùng 1 chiến thuật |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Hoa Kỳ Việt Nam Cộng hòa |
Sinh | 6 tháng 10 năm 1932 Phú Vang, Thừa Thiên, Liên bang Đông Dương |
Mất | 19 tháng 10 năm 2005 Los Angeles, California, Hoa Kỳ | (73 tuổi)
Nguyên nhân mất | Tuổi già |
Nơi ở | California, Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Vợ | Phan Thu Cầm |
Con cái | 3 người con (2 trai, 1 gái) Nguyễn Văn Thịnh Nguyễn Văn Vượng Nguyễn Thị Thu Hằng |
Học vấn | Tú tài bán phần |
Alma mater | -Trường Quốc học Khải Định, Huế -Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt -Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông, Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) -Học viện Thiết giáp Kỵ binh Saumur, Pháp -Trường Kỵ binh Fort Knox, [Kentucky, Hoa Kỳ |
Quê quán | Trung Kỳ |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1950 - 1975 |
Cấp bậc | Trung Tướng |
Đơn vị | Binh chủng Thiết giáp Sư đoàn 2 Bộ binh Quân đoàn II và QK 2 Quân đoàn III và QK 3 |
Chỉ huy | Quân đội Quốc gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam |
Tặng thưởng | Bảo quốc Huân chương đệ Nhị đẳng |
Nguyễn Văn Toàn (1932 - 2005) từng là một tướng lĩnh Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đạt cấp bậc Trung tướng. Ông là học viên của các khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia. Sau khi tốt nghiệp, ông được phân công vào Binh chủng Kỵ binh và được biết đến như một tướng lĩnh của Thiết giáp. Có thời gian, ông chuyển sang Bộ binh và chỉ huy một Sư đoàn ở Quảng Ngãi. Có tin đồn rằng ông đã lợi dụng chức vụ để khai thác vỏ cây quế ở rừng Trà My và bán sang Hồng Kông, thông tin này được đăng tải trên các tờ báo như Sóng Thần và Tuần Báo Đời ở Sài Gòn, do đó ông được gọi bằng cái tên mỉa mai là 'Quế tướng công'.
Thông tin về cuộc đời và sự nghiệp
Ông sinh vào ngày 6 tháng 10 năm 1932 trong một gia đình khá giả và có truyền thống tại Phú Vang, Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam. Khi còn trẻ, ông học tại trường Quốc học Khải Định ở Huế và hoàn thành chương trình Trung học phổ thông với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Năm 1950, vừa tròn 18 tuổi và đã thi đậu Tú tài, ông quyết định tình nguyện gia nhập Quân đội Quốc gia với số quân: 52/206.032. Ông tham gia khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950. Trong thời gian huấn luyện, ông bị ốm và phải xin phép ra ngoài để điều trị. Đến năm 1951, ông tiếp tục học khóa 5 Hoàng Diệu, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Vào ngày 24 tháng 4 năm 1952, ông tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Sau khi ra trường, ông gia nhập Binh chủng Thiết giáp và sau đó học khóa căn bản Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông ở Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Ngày 1 tháng 4 năm 1953, ông được bổ nhiệm làm Chi đội trưởng Thám thính xa. Đầu năm 1954, ông được thăng cấp Trung úy và làm Chi đoàn phó Chi đoàn Thám thính.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Vào đầu năm 1956, sau khi chuyển từ Quân đội Quốc gia sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được cử đi du học khóa Thiết giáp cao cấp tại Học viện Thiết giáp Kỵ binh Saumur, Pháp. Sau khi hoàn thành khóa học, ông trở về và được bổ nhiệm làm Chi đoàn trưởng Chi đoàn Thiết giáp. Vào cuối năm, ông được thăng cấp Đại úy và giữ chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 4 Thiết giáp.
Vào tháng 7 năm 1957, sau khi bàn giao chức vụ Trung đoàn phó cho Đại úy Trần Quang Khôi, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Huế thay thế Đại úy Nguyễn Đình Bảng. Đến cuối năm 1958, ông bàn giao chức vụ Trung đoàn trưởng cho Đại úy Nguyễn Tuấn. Đầu năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử đi du học khóa Thiết giáp cao cấp tại trường Kỵ binh Fort Knox, Kentucky, Hoa Kỳ trong 6 tháng.
Vào đầu năm 1961, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp tại Trại Trần Hưng Đạo, Tân Sơn Nhất, dưới sự chỉ huy của Trung tá Nguyễn Văn Thiện. Năm 1962, ông tiếp tục được cử đi du học lớp Tham mưu Đặc biệt (chương trình chống nổi loạn) tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina, Hoa Kỳ.
Vào tháng 6 năm 1963, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp tại Long Hải, Phước Tuy, thay thế Thiếu tá Dương Văn Đô. Đến cuối năm 1964, ông bàn giao trường cho Trung tá Lâm Quang Thơ và nhận lại chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Đà Nẵng, thay thế Trung tá Nguyễn Tuấn. Vào ngày 1 tháng 11 năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá.
Đầu tháng 1 năm 1967, ông nhận lệnh bàn giao Trung đoàn 4 Thiết giáp cho Thiếu tá Phan Hòa Hiệp. Giữa tháng 1, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, thay thế Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm, người được cử làm Tư lệnh Quân đoàn I, Quân khu 1.
Vào ngày 19 tháng 6 năm 1968, nhân Ngày Quân lực, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Đến ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1970, ông tiếp tục được thăng cấp Thiếu tướng.
Đầu tháng 2 năm 1972, ông được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp, hoán chuyển nhiệm vụ với Đại tá Phan Hòa Hiệp, người trở lại làm Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh. Vào tháng 5 cùng năm, ông bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết giáp cho Đại tá Dương Văn Đô. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn II, thay thế Trung tướng Ngô Dzu.
Vào đầu tháng 3 năm 1974, ông được thăng cấp Trung tướng. Vào cuối tháng 10 năm đó, ông bàn giao Quân đoàn II cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú và quay lại giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp, thay thế Chuẩn tướng Lý Tòng Bá.
Năm 1975
Vào ngày 6 tháng 1, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn III, thay thế Trung tướng Dư Quốc Đống (người đã từ chức). Ông vẫn tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp Trung ương.
- Vào tháng 3 và tháng 4 năm 1975, các nhân sự của Binh chủng Thiết giáp ở Bộ chỉ huy Trung ương và các đơn vị Kỵ binh trực thuộc đã được phân bổ nhiệm vụ cho các Quân đoàn và Sư đoàn như sau:
- Chỉ huy trưởng - Trung tướng Nguyễn Văn Toàn
- Chỉ huy phó - Đại tá Thẩm Nghĩa Bôi
- Phụ tá Chỉ huy trưởng - Đại tá Lương Bùi Tùng
- Tham mưu trưởng - Đại tá Nguyễn Đức Dung
- Chỉ huy Trường Thiết giáp - Đại tá Huỳnh Văn Tám
- Lữ đoàn 1 Kỵ binh - Đại tá Nguyễn Xuân Hường
- Lữ đoàn 2 Kỵ binh - Đại tá Nguyễn Văn Đồng
- Lữ đoàn 3 Kỵ binh - Chuẩn tướng Trần Quang Khôi
- Lữ đoàn 4 Kỵ binh - Đại tá Trần Ngọc Trúc
- Vào tháng 4 năm 1975, nhân sự trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn III được phân công như sau:
- Tư lệnh - Trung tướng Nguyễn Văn Toàn
- Tư lệnh phó 1 - Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
- Tư lệnh phó 2 - Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu
- Tư lệnh phó 3 - Thiếu tướng Đào Duy Ân
- Tham mưu trưởng - Chuẩn tướng Lê Trung Tường
- Trưởng phòng 3 - Đại tá Hoàng Đình Thọ
- An ninh Quân đội - Đại tá Nguyễn Khuyến
- Chỉ huy Pháo binh - Đại tá Lê Văn Trang
- Chỉ huy Tiếp vận - Đại tá Trần Quốc Khang
Vào chiều ngày 29 tháng 4, ông đã rời khỏi đất liền bằng trực thăng và di tản đến Đệ Thất Hạm đội đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu. Sau đó, ông chuyển đến sống tại thành phố Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ.
Ngày 19 tháng 10 năm 2005, ông qua đời tại nơi cư trú, hưởng thọ 73 tuổi. Ông được an táng tại Nghĩa trang Rose Hill, Los Angeles, California, Hoa Kỳ.
Gia đình
- Vợ: Bà Phan Thu Cầm
- Con cái: Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Văn Vượng và Nguyễn Thị Thu Hằng
Danh hiệu và huy chương
- Bảo quốc Huân chương đệ nhị đẳng
- 30 huy chương các loại
- 2 Silver Star của Hoa Kỳ
Ghi chú
- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Liên kết ngoài
- Andrade, Dale. Cuộc chiến dữ dội: Cuộc tấn công mùa Phục sinh 1972, trận chiến cuối cùng của Mỹ tại Việt Nam. New York: Hippocrene Books, 1993.
- Vien, Đại tướng Cao Văn, Sự Sụp Đổ Cuối Cùng. Washington DC: Trung tâm Lịch sử Quân đội Hoa Kỳ, 1983.