Smartphone: Lợi ích và nguy cơ đi đôi
Giáo sư, chuyên gia tâm lý học Sonia Livingstone, OBE, cho rằng có cách để cả hai phe này tìm ra điểm chung, để cùng nhau đạt được sự thỏa hiệp, từ đó tạo ra tương lai tốt hơn cho trẻ em. Giống như Haidt, bà Livingstone cũng là một nhà tâm lý học xã hội, là giáo sư nghiên cứu về cuộc sống số của thanh thiếu niên tại Trường Kinh tế London và là người đã đặt nền móng cho Đạo luật An toàn Trực tuyến năm 2023 tại Anh Quốc. Đạo luật này giao cho các tập đoàn công nghệ trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em.Trước đây, bà Livingstone luôn phản đối việc thiết lập giới hạn thời gian sử dụng các thiết bị công nghệ cho trẻ em. Lý do là, quản lý điều quan trọng hơn là những gì các em làm với điện thoại hoặc máy tính bảng, và trong hoàn cảnh như thế nào, chứ không phải là sử dụng điện thoại bao lâu. Điều quan trọng hơn, điện thoại và máy tính bảng mang lại đồng thời cả lợi ích và nguy cơ.Bà Livingstone cho rằng, Anh Quốc đã “lãng phí 2 thập kỷ” kỳ vọng các tập đoàn công nghệ có thể tự quản lý chính họ, kết quả là nước Anh phải có đạo luật An toàn Trực tuyến với những điều khoản mạnh mẽ và nghiêm ngặt: “Chúng tôi đã có quyền tắt tính năng tự động phát nội dung. Nó sẽ làm hỏng mô hình kinh doanh của TikTok, khiến TikTok phải suy nghĩ lại. Đám trẻ nói với tôi rằng: Có lúc chúng nó bị cuốn vào việc cuộn nội dung u ám, rồi giật mình, thì đã mất 3 tiếng.”
Phụ huynh luôn cần điều hành cùng con cái
Thứ hai mà giáo sư Livingstone tập trung vào là tìm cách để phụ huynh và trẻ em có được tiếng nói: “Không có ai sẽ nói rằng, để con một mình với điện thoại, con sẽ trở nên hạnh phúc và phát triển tốt.”
Quan điểm hiện tại của chính phủ Anh Quốc là ủng hộ các trường học cấm học sinh sử dụng điện thoại, kể cả trong và ngoài giờ học, miễn là vẫn ở trong khuôn viên trường. Một nghiên cứu gần đây của các nhà nghiên cứu Na Uy củng cố quan điểm này, chỉ ra rằng việc cấm sử dụng điện thoại trong thời gian thanh thiếu niên ở trường có thể cải thiện điểm số, giảm tình trạng bị bắt nạt. Tuy nhiên, tổng thể các nghiên cứu học thuật về vấn đề này vẫn còn rất hạn chế và không thể đưa ra kết luận chính xác.”
Thay vì như vậy, theo giáo sư Livingstone, trường học “nên lắng nghe ý kiến của các thanh thiếu niên. Chính họ có thể đưa ra quyết định như là trong giờ học không được sử dụng điện thoại. Hoặc trong giờ ăn trưa chỉ sử dụng điện thoại khi có tin nhắn từ phụ huynh hoặc trường hợp khẩn cấp.” Theo giáo sư này, tuổi thiếu niên “vẫn cần không gian để gặp gỡ và trò chuyện trực tiếp”, nhưng đồng thời cũng cần có quy định linh hoạt về việc cho phép hoặc cấm sử dụng smartphone.
Những quy định nghiêm ngặt thường gặp những tình huống mà người ra quy định không thể đoán trước. Ví dụ, ở những gia đình thiếu sự hiện diện của cha mẹ, điện thoại có thể là nguồn kiến thức quan trọng. Hoặc một tình huống khác là việc cấm trẻ em sử dụng điện thoại 1 tiếng trước khi đi ngủ, nhưng liệu họ sẽ sử dụng ứng dụng hỗ trợ giấc ngủ thì sao?
“Mọi cuộc tranh luận về quy định đều làm suy yếu niềm tin của cha mẹ và phụ huynh vào khả năng tự quyết định hợp lý của trẻ em.”“đều sẽ gặp sự phản đối hoặc căm ghét từ phía trẻ em.”“Chính bản thân chúng ta cũng lo sợ khi phải chỉ dẫn con cái, thậm chí người lớn cũng cần được chỉ dẫn.”
Tác động của smartphone và mạng xã hội
Kể từ khi smartphone trở nên phổ biến vào đầu những năm 2010, thật là có xu hướng tăng tỷ lệ mắc các rối loạn tâm thần ở thanh thiếu niên tại phương Tây. Tuy nhiên, nguyên nhân không chỉ đơn thuần là do việc sử dụng mạng xã hội mở rộng tầm nhìn của các bạn trẻ quá nhanh. Cũng có sự gia tăng về hành vi tự hại và tự tử ở Anh và Mỹ kể từ đầu thập kỷ 2010. Mặt khác, có một số quốc gia đã trải qua xu hướng ngược lại, như Pháp. Các nghiên cứu của PISA cho thấy rằng, ở độ tuổi 15, cảm giác cô đơn ngày càng tăng cao.
Theo bà Livingstone: “Có các dữ liệu trong quá khứ mà tôi tin tưởng, cho thấy có một sự thay đổi từ sau Thế chiến thứ hai, khi con người phải đối mặt với các vấn đề nội tại hơn là các vấn đề bên ngoài. Quả thật, có xu hướng tăng về cảm giác cô đơn và các vấn đề về tâm thần, nhưng đồng thời, chúng ta cũng thấy tỷ lệ thanh thiếu niên vi phạm pháp luật giảm đi, sử dụng rượu bia dưới 18 tuổi cũng giảm, tỷ lệ mang thai ở tuổi vị thành niên cũng giảm. Điều này là kết quả của một thế hệ đang thận trọng hơn, nhận thức về vấn đề và giữ chúng lại bên trong hơn là thả lỏng ra ngoài.”
Các cuộc phỏng vấn với trẻ em của giáo sư Livingstone đã cho thấy rằng, trẻ em cảm thấy “bị người lớn làm thất vọng.” Chúng cho biết điện thoại giờ đây là công cụ chủ yếu để theo dõi tin tức, nhưng cũng là nguồn cung cấp thông tin giả mạo, tạo ra lo âu và hoảng loạn, cũng như làm mất tiếng nói của bản thân: “Điều này khiến chúng cảm thấy bị áp đặt, bị ép phải chịu trách nhiệm về những điều đang diễn ra, nhưng vấn đề là chúng không có khả năng thay đổi gì.”
Jonathan Haidt đã gọi thế hệ sinh sau năm 1996 là “thế hệ lo lắng.” Nhưng sự lo lắng đã bắt đầu từ các thế hệ hiện nay làm cha mẹ, khi bị ngăn cấm không được ra ngoài chơi vì sợ nguy hiểm. Thập kỷ 1990, bà Livingstone đã chú ý đến tỷ lệ trẻ em có TV trong phòng ngủ. Ngay từ thời điểm đó, các bạn thanh thiếu niên thập niên 8x, 9x đã thể hiện sự ưa thích việc chơi ở ngoài hơn, nhưng không được phép.
Trái lại, số liệu từ cơ quan quản lý viễn thông Ofcom (Văn phòng Truyền thông) lại cho thấy điều khác. Năm 2021, trẻ em ở Mỹ trung bình dành 3,5 giờ mỗi ngày trên mạng xã hội. Tại Anh, 25% trẻ em 5 đến 7 tuổi sở hữu smartphone. Trong số đó, 30% xem TikTok. Nhiều phụ huynh cũng cảm thấy một phần lo lắng khi thấy con mình ngồi liên tục nhắn tin và xem video trên điện thoại. Tuy nhiên, họ cũng nhận ra rằng không thể cắt đứt con khỏi smartphone, bởi vì bạn bè của chúng đều sử dụng nó tại trường học.
Bà Livingstone mạnh mẽ khẳng định: “Các em không biết rời mắt khỏi điện thoại, đúng không? Tôi đã quan sát ở trường học, sau giờ học, đứa nào cũng sôi nổi trò chuyện, không thấy ai rút điện thoại ra cả.”