
Đàn đá (các dân tộc Tây Nguyên gọi là goong lu, phát âm là goòng lú, nghĩa là 'đá phát ra âm thanh như tiếng cồng') là một trong những nhạc cụ gõ cổ xưa nhất ở Việt Nam và thuộc nhóm nhạc cụ sơ khai nhất của nhân loại. Được chế tác từ các thanh đá với kích thước khác nhau như dài, ngắn, dày, mỏng. Thanh đá lớn, dài có âm trầm, trong khi thanh ngắn, mỏng phát ra âm cao. Những loại đá này được chọn từ vùng núi Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ để chế tạo. Đàn đá đã được UNESCO công nhận là một phần của Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.
Lịch sử khám phá
Vào năm 1949, các công nhân xây dựng đã phát hiện tại Ndut Liêng Krak, Đắk Lắk, Tây Nguyên một bộ đàn đá gồm 11 thanh xám, có dấu vết chế tác bằng tay, với kích thước từ lớn đến nhỏ, thanh dài nhất đạt 101,7 cm và nặng 11,21 kg; thanh ngắn nhất dài 65,5 cm và nặng 5,82 kg. Phát hiện này được thông báo cho Georges Condominas, một nhà khảo cổ người Pháp làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ. Vào tháng 6 năm 1950, giáo sư Georges Condominas đã mang các thanh đá về Paris để nghiên cứu cùng với giáo sư âm nhạc André Schaeffner. Kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Âm nhạc học (tập 33 – bộ mới) số 97-98 tháng 7 năm 1951, xác nhận đây là loại đàn lithophone ở Ndut Liêng Krak và nhấn mạnh rằng 'nó không giống bất kỳ nhạc cụ đá nào mà khoa học đã biết'. Hiện bộ đàn đá này được trưng bày tại Bảo tàng Con người ở Paris, Pháp.
Vào năm 1956, trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, một bộ đàn đá thứ hai được phát hiện và đã được một đại úy Mỹ mang về trưng bày tại New York.
Năm 1980, Georges Condominas phát hiện thêm một bộ đàn đá thứ ba với 6 thanh tại buôn Bù Đơ, xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Bộ đàn này đã được dòng họ Ksiêng (người Mạ) gìn giữ qua 7 thế hệ.
Từ năm 1979, công việc nghiên cứu và sưu tầm đàn đá đã được giới khoa học Việt Nam khởi xướng. Đến đầu những năm 1990, khoảng 200 thanh đàn đá đã được tìm thấy rải rác ở các tỉnh như Đắk Lắk, Khánh Hòa, Đồng Nai, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Sông Bé, và Phú Yên... Mỗi bộ đàn thường gồm từ 3 đến 15 thanh. Các bộ đàn nổi bật như Khánh Sơn, Bắc Ái, Tuy An, Bình Đa đều được đặt tên theo địa điểm phát hiện. Dựa trên các hiện vật tìm thấy tại di chỉ khảo cổ Bình Đa, các nhà khoa học ước tính tuổi của những thanh đá này khoảng 3.000 năm.
Sau khi khai quật và nghiên cứu tại đỉnh núi Dốc Gạo, thuộc thôn Tô Hạp, xã Trung Hạp, Khánh Sơn, các nhà nghiên cứu đã phát hiện nhiều dấu tích chứng tỏ người xưa đã chế tác đàn đá tại khu vực này. Các khối đá và mảnh vụn được tìm thấy chủ yếu là loại đá phún thạch, phổ biến ở Khánh Sơn, cũng là nguyên liệu chính để chế tác đàn đá Khánh Sơn. Những dấu vết chế tác tại chỗ khẳng định rằng dân tộc Raglai, cư dân cổ xưa của khu vực, chính là những người đã tạo ra các bộ đàn đá này.
Đặc điểm
Âm thanh của đàn đá khi ở âm vực cao phát ra những giai điệu trong trẻo và xa xăm. Ở âm vực trầm, nó vang lên như tiếng vọng từ các vách đá. Người xưa tin rằng âm thanh của đàn đá có khả năng kết nối thế giới âm với thế giới dương, nối liền con người với thần linh, và kết nối hiện tại với quá khứ. Đàn đá đã được giới thiệu cả trong nước và quốc tế.
Âm thanh của đàn đá được GS.TS. Trần Văn Khê ca ngợi là 'biểu hiện tâm tư giống như con người'.
Các bộ đàn đá nổi bật
- Vào tháng 6 năm 2003, ông K’Branh (người dân tộc Cơ Hơ) ở buôn Bờ Nơm, Lâm Đồng phát hiện một bộ đàn đá gồm 20 thanh. Hai thanh dài nhất có bề rộng 22 cm, dài 151 cm và 127 cm, trong khi thanh ngắn nhất rộng khoảng 10 cm và dài 43 cm. Các thanh còn lại dài từ 71 đến 75 cm và rộng khoảng 15 cm. Đây là bộ đàn đá cổ với số lượng thanh nhiều nhất từng được phát hiện.
- Vào tháng 7 năm 2006, một bộ đàn đá được phát hiện ở Bình Thuận, gồm 8 thanh, trong đó thanh dài nhất là 95 cm, rộng 17 cm và nặng 12,5 kg; các thanh khác giảm dần chiều dài, với thanh ngắn nhất dài 52,5 cm và nặng 4,5 kg. Tất cả các thanh đều được chế tác tinh xảo, có hình dạng giống nhau với hai đầu dày và hơi phình to, eo nhỏ ở giữa là phần mỏng nhất. Phát hiện này gây bất ngờ cho giới khảo cổ học vì khu vực phát hiện gần biển, thuộc văn hóa Sa Huỳnh, khác với các bộ đàn đá trước đây chỉ được tìm thấy ở vùng núi cao.
- Bộ đàn đá hiện đại gồm 100 thanh do hai anh em nghệ sĩ Nguyễn Chí Trung và Nguyễn Đức Lộc chế tác, bao gồm 2 giàn đàn, mỗi giàn 50 thanh. Đây là bộ đàn đá có số lượng thanh nhiều nhất tại Việt Nam hiện nay.
Chú thích
Các nhạc cụ dân tộc Việt Nam | |
---|---|
Dây (Đàn bầu • Đàn đáy • Đàn nhị/Đàn hồ • Đàn tam • Đàn tranh • Đàn tứ • Đàn tỳ bà • Đàn nguyệt • Đàn sến • Guitar phím lõm • Tam thập lục • Trống quân) Màng rung (Trống bản • Trống bộc • Trống cái • Trống cơm • Trống chầu • Trống chiến • Trống đế • Trống mảnh • Trống khẩu • Bồng) Hơi (Kèn bầu • Tù và • Sáo trúc • Tiêu) Tự thân vang (Biên chung • Chiêng • Chũm chọe • Chuông • Khánh/Biên khánh • Mõ • Phách • Sênh sứa • Sênh tiền • Song lang • Thanh la • Tiu/Cảnh • Trống đồng) | |
Miền núi phía Bắc | Bẳng bu • Cò ke • Đao đao • Đàn môi • Đuống/Luống • Kèn lá • Khèn H'Mông • Linh • Pi cổng • Pí đôi/Pí pặp • Pí lè • Pí một lao • Pí phướng • Púa • Sáo H'Mông • Ta in • Tính tẩu • Trống nêm • Trống tang sành |
Bắc Trung Bộ | Abel • Khèn bè • Cr'tót • Ta lư |
Tây Nguyên | Cồng chiêng (Aráp • Knăh ring • M’nhum • T’rum • Vang) Trống cái (H'gơr • Pơ nưng yun) Alal • Bro • Chênh kial • Chiêng tre • Chapi • Đàn đá • Đing năm • Đinh đuk • Đing ktút • Đuk đik • Goong • Goong đe • K'lông pút • K’ny • Khinh khung • Pơ nưng yun • Rang leh • Rang rai • T'rưng • Ta pòl • Tol alao • Tông đing • Tơ đjếp • Tơ nốt |
Duyên hải Nam Trung Bộ | Trống Paranưng • Trống Ghinăng |