Đàn bầu (chữ Nôm: 彈匏) hay độc huyền cầm (giản thể: 独弦琴; phồn thể: 獨弦琴; bính âm: dúxiánqín) là một loại nhạc cụ truyền thống của người Việt, phát ra âm thanh nhờ que hay miếng gảy vào dây. Tùy theo hình dạng hộp cộng hưởng, đàn bầu chia thành hai loại: đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
Đàn bầu phổ biến trong các dàn nhạc truyền thống của Việt Nam. Nhiều nhạc sĩ đã soạn và sắp xếp các tác phẩm concerto để biểu diễn đàn bầu cùng với dàn nhạc giao hưởng như Vì Miền Nam, Ru con, Tình ca... Đàn bầu không chỉ được người Việt Nam yêu thích mà còn được nhiều khán giả trên toàn thế giới yêu mến. Đàn bầu đã được giới thiệu vào Trung Quốc bởi người di cư từ vùng Đồ Sơn, Hải Phòng đến vùng Tam Đảo (trước đây thuộc Việt Nam, sau Công ước Pháp – Thanh năm 1887, vùng này thuộc Trung Quốc) khoảng 500 năm trước đây.
Lịch sử và nguồn gốc
Có ghi chép sớm nhất về đàn bầu từ năm 1770, nhưng có thể nó đã tồn tại hơn một nghìn năm theo ước tính của các học giả. Một truyền thuyết phổ biến kể về một người phụ nữ mù chơi đàn bầu để kiếm sống cho gia đình trong khi chồng cô đi chiến trận. Dù có dựa trên sự thật hay không, đàn bầu trong lịch sử vẫn được các nghệ sĩ mù chơi. Gần đây, âm thanh êm dịu của nó đã hạn chế các bối cảnh âm nhạc mà nó có thể sử dụng. Đàn bầu, với âm nhạc độc tấu, là trung tâm của âm nhạc dân gian Việt Nam, một thể loại vẫn rất phổ biến ngày nay. Một ứng dụng truyền thống khác của nó là đệm cho các bài thơ. Với việc phát minh ra bộ thu từ tính, đàn bầu đã lan rộng sang các dàn nhạc hòa tấu và thậm chí nhạc pop và rock hiện đại của châu Á. Hiện nay, các thiết bị điện tử được thiết kế cho guitar điện đôi khi cũng được sử dụng với đàn bầu để mở rộng bản phổ của nó.
Phân loại và cấu tạo
Phân loại
Đàn thân tre thường được sử dụng trong âm nhạc xẩm hoặc các vùng khó khăn, nơi không có điều kiện để chế tác tỉ mỉ. Thân đàn làm từ một cây tre hoặc bầu dài khoảng 120 cm, đường kính 12 cm. Mặt đàn đã được lọc để tạo ra âm thanh phù hợp trên cây tre hoặc bầu. Loại này hiện không phổ biến.
Đàn hộp gỗ là một loại đàn âm thanh cải tiến, được ưa chuộng bởi các nghệ sĩ chuyên nghiệp. Đàn hộp gỗ có nhiều hình dáng và kích thước khác nhau, thường làm từ các loại gỗ nhẹ như gỗ ngô đồng... Đây là loại đàn phổ biến nhất trong dòng đàn bằng gỗ.
Cấu trúc và thiết kế
Đàn bầu thường có hình dạng trụ tròn (làm từ tre, gỗ bàng, hoặc gỗ sồi) hoặc hình hộp chữ nhật; một đầu lớn hơn một đầu nhỏ hơn một chút; thường có chiều dài khoảng 110 cm, đường kính hoặc chiều rộng của đầu lớn khoảng 12,5 cm, và đầu nhỏ khoảng 9,5 cm; chiều cao khoảng 10,5 cm. Đàn thường được làm từ gỗ ngô đồng, gỗ thông hoặc gỗ tung. Mặt đàn có hình dạng hơi lên ở phần trên, đáy đàn phẳng với một lỗ nhỏ để treo, một lỗ hình chữ nhật ở giữa để thoát âm khi cầm và di chuyển đàn, và một không gian trống để buộc dây đàn. Thành đàn làm từ gỗ cứng như mun hay cẩm lai để tạo độ chắc chắn và có thể lắp khóa dây đàn.
Ở phần đầu lớn của đàn, có một miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn. Dây đàn được luồn qua ngựa đàn và cột lên trục chính của đàn. Trục này được trang trí và giấu phía sau thành đàn. Ngày nay, dây đàn thường được cố định bằng khóa dây đàn kim loại để tránh tuột dây. Ở đầu nhỏ của đàn, có một cây đàn (còn được gọi là cần đàn hoặc vòi đàn) làm từ gỗ hoặc sừng. Cây đàn đi qua nửa phần trái của bầu đàn, được làm theo hình dạng tương tự và cắm vào một lỗ trên mặt đầu nhỏ của vỏ đàn. Một đầu của dây đàn được buộc vào cây đàn, nằm giữa bầu đàn.
Khi công nghệ điện tử phát triển, để tăng âm lượng của tiếng đàn, người ta thường lắp một cuộn cảm điện từ có lõi sắt non vào phía dưới mặt đàn gần dây ở đầu lớn, nhằm thu âm thanh và truyền tín hiệu qua dây đồng trục đến ampli âm thanh. Loại đàn này chỉ dùng được dây thép và có hạn chế là âm thanh không được trung thực bằng đàn không sử dụng cảm biến điện từ (đàn nguyên bản).
Que gảy đàn thường được làm từ tre, giang, thân dừa, hoặc gỗ mềm... Đôi khi que được làm nhọn hơn để làm mềm âm thanh khi gảy. Ngày xưa, que thường dài khoảng 10 cm, nhưng ngày nay với các kỹ thuật chơi đàn nhanh, người ta thường dùng que ngắn khoảng 4-4,5 cm.
Tính năng và tác dụng
Đàn bầu có âm vực rộng lên đến 3 quãng tám. Nhờ âm bội nên âm thanh của nó rất đẹp, sâu lắng và quyến rũ. Tiếng đàn có thể mang nét buồn bã, thiết tha, hoặc ngọt ngào và tình tự, thể hiện rất tốt cảm xúc con người. Âm thanh phát ra ở khoảng cách 2 quãng tám vẫn nghe rất rõ, mặc dù là âm bội. Nếu sử dụng các kỹ thuật như căng hoặc nới dây của cây đàn, âm vực của đàn bầu có thể vượt xa hơn 3 quãng tám.
Đàn bầu thích hợp với những giai điệu trữ tình, êm dịu. Tuy nhiên, những nghệ nhân xẩm cũng có thể dùng nó để biểu diễn các bài hát vui như xẩm xoan hoặc những bản ca khúc mới, sôi động và đầy sức sống. Trong ca dao Việt Nam có câu 'Đàn bầu ai gảy nấy nghe, làm thân con gái chớ nghe đàn bầu', ý chỉ sự thu hút mạnh mẽ của tiếng đàn với người nghe.
Trước đây, đàn bầu chủ yếu được dùng để độc tấu hoặc đệm hát, tham gia các ban nhạc truyền thống cùng với đàn nguyệt, đàn tam, nhị hay tỳ bà,... trong phòng hát. Ngày nay, nhờ thiết bị tăng âm, đàn bầu có thể độc tấu ngoài trời hoặc hòa tấu với dàn nhạc lớn và nhiều nhạc cụ khác.
Nhiều nghệ nhân tài năng đã sử dụng tiếng đàn bầu để mô phỏng giọng nói của ba miền Nam, Trung, Bắc và cả giọng nam, giọng nữ, hoặc âm thanh ngân nga như ngâm...
Phương pháp chơi cơ bản
Cách điều chỉnh âm thanh chuẩn cho dây đàn
Người ta thường điều chỉnh âm thanh của đàn bầu dựa trên dây buông với âm tự nhiên, tuy nhiên cũng có khi phải điều chỉnh từng bài bản. Ví dụ, nếu bài nhạc là cung đô, thì âm tự nhiên của dây buông sẽ là đô. Ngoài ra, còn có vài cách điều chỉnh âm khác. Vì chỉ có một dây buông nên phải chia dây từ cần đến ngựa để xác định các nốt khác nhau: 1/2 dây là nốt đô 1 cao hơn dây buông một quãng 8, 1/3 dây là nốt sol 1, 1/4 là nốt đô 2, 1/5 là nốt mi 2, 1/6 là nốt sol 2, 1/7 là nốt si giáng (ít được sử dụng), 1/8 là nốt đô 3.
Ngoài 6 điểm điều chỉnh âm thông thường là đô 1, sol 1, đô 2, mi 2, sol 2 và đô 3, còn có thể tạo âm thanh thêm bằng cách gảy dây buông bằng que gảy, thường gảy gần ngựa đàn hơn là gảy vào các điểm điều chỉnh âm.
Cách sử dụng que gảy đàn bầu
Cách sử dụng và gảy đàn bầu yêu cầu kỹ thuật đặc biệt. Người chơi cầm que bằng tay phải, đặt que trong lòng bàn tay sao cho que hơi nghiêng so với chiều ngang dây đàn. Que đàn được đặt trên ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải, với ngón cái giữ que đàn và đầu nhỏ của que thường nhô ra khoảng 1,915 cm. Các ngón còn lại hơi cong theo ngón trỏ và ngón giữa. Khi gảy dây, đặt cạnh bàn tay vào điểm phát âm bội, hất nhẹ que đàn cùng lúc nhấc bàn tay lên để tạo ra âm bội. Những điểm chạm vào cạnh bàn tay được gọi là điểm nút, và những điểm trên dây đàn mà que gảy vào được gọi là điểm gảy. Vì đàn bầu không có phím nên các điểm nút này được xem như là các điểm nhấn âm thanh của đàn bầu.
Các tư thế biểu diễn
Tư thế thông thường nhất khi biểu diễn đàn bầu là đặt trên một chiếc bàn nhỏ thường là hộp đàn với 4 chân rời, có 2 chỗ chặn để giữ đàn vững khi kéo cần đàn. Khi ngồi trên chiếu để chơi đàn, đầu gối chân phải tì vào cạnh hộp đàn để giữ cho đàn không bị di chuyển. Ngày nay, nghệ sĩ thường biểu diễn đứng hoặc ngồi trên ghế. Khi đứng, đàn được đặt trên giá gỗ với các chốt định vị có độ cao phù hợp với vị trí đứng của nghệ sĩ.
Sử dụng tay trái trên cần đàn và dây đàn
Ngón rung: Khi khảy dây, các ngón tay trái rung nhẹ trên cần đàn, tạo ra âm thanh như làn sóng. Việc này tạo ra hiệu ứng ngón rung rất quan trọng, không chỉ làm cho âm thanh của đàn mềm mại mà còn thể hiện phong cách của bản nhạc. Trong các bản nhạc buồn hay vui, người chơi phải khảy dây với những ngón rung tương ứng đã được quy định từ trước.
Ngón vỗ: Bằng cách vỗ ngón cái hoặc ngón trỏ, người chơi tạo ra âm thanh hãm và thăng giáng liên tục, ngắt quãng do dao động âm tắt nhanh. Theo nghệ sĩ Thanh Tâm, ngón vỗ thường biểu hiện tình cảm đau khổ, uất ức và nghẹn ngào.
Ngón vuốt: Đặt ngón tay lên cần đàn để di chuyển qua các thang âm và dừng lại ở âm được quy định trong bản nhạc.
Ngón luyến: Kéo cần đàn thẳng lên hoặc xuống để đạt được âm nhạc được quy định.
Ngón tạo tiếng chuông: Bấm vào dây đàn bằng cách dùng cảm giác để giảm âm thanh chính và tạo ra âm bội trên âm thanh chính. v.v.
Sự phát triển của đàn bầu trong âm nhạc dân tộc
Trong lịch sử các nhạc cụ dân tộc Việt Nam, không có nhạc cụ nào được thay đổi và cải tiến nhiều như đàn bầu.
Cần đàn không dùng tre nữa mà thay vào đó là sừng, để cho cần mềm và dễ uốn hơn.
Bầu đàn trước đây được làm từ vỏ bầu khô hoặc ống tre, gáo dừa; hiện nay thay thế bằng sừng hoặc phổ biến nhất là gỗ để có thể điều chỉnh được.
Que đàn trước đây dài khoảng 10 cm, nay được rút ngắn còn khoảng 4 cm. Vật liệu từ tre và giang đã được bổ sung thêm bằng gỗ, dừa, sừng hoặc nhựa.
Theo nhạc sĩ Bùi Lẫm: Vào những năm 1960, nghệ sĩ Mạnh Thắng đã phát minh ra que gẩy ngắn và cải tiến đưa công nghệ khuếch đại âm thanh vào đàn bầu. Ông cũng là người đầu tiên đưa đàn bầu ra nước ngoài biểu diễn, mang về nhiều giải thưởng quý giá cho Việt Nam. Sau đó, với que gẩy ngắn này, nghệ sĩ ưu tú Đức Nhuận đã phát minh kỹ thuật vê (teremono) trên một dây và sử dụng bồi âm trên bồi âm.
Thân đàn và các phụ kiện: Loại đàn cũ có thân to, mặt mỏng để tăng âm thanh vang vọng. Khóa đàn làm bằng gỗ. Đàn hiện đại sử dụng công nghệ điện tử khuếch đại âm thanh, kích thước nhỏ hơn và khóa đàn làm bằng kim loại. Một cải tiến đáng chú ý là đàn bầu điện tử có thể tháo rời, gập lại và xếp gọn khi di chuyển. Trong khi biểu diễn, người chơi có thể lắp ráp nhanh chóng.
Hộp chứa đàn: Ngoài việc bảo quản và bảo vệ đàn khi di chuyển, hộp này còn có thể được sử dụng làm giá để đặt đàn với hai chốt chặn ở hai đầu, tiện lợi cho việc căng dây hoặc thay dây khi chơi các bản nhạc có nhiều âm chủ khác nhau.
Điện tử hóa: Đàn bầu hiện đại được trang bị điện tử bằng cách lắp đặt các cảm biến điện từ kết nối với máy khuếch đại âm thanh và loa để tăng cường âm lượng. Chúng được sử dụng phổ biến trong các dàn nhạc dân tộc chuyên nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều người yêu nhạc nước ngoài vẫn thích nghe trình diễn trên đàn 'thuần túy' (không có bộ khuếch đại âm thanh điện tử), cho rằng âm thanh thuần khiết và chân thật hơn.
Đàn bầu trong nghệ thuật
- Ca dao: Đàn bầu ai gẩy nấy nghe / Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu. Theo nghệ sĩ Hoàng Anh: 'ông bà mình ngày xưa khuyên con gái chớ nên nghe đàn bầu vì sợ tiếng đàn réo rắt, buồn bã dễ vận vào đời người phụ nữ'.
- Thơ: Đất nước tôi, thon thả giọt đàn bầu / Nghe nặng nỗi đau của mẹ / Ba lần tiễn con đi / Hai lần khóc thầm lặng lẽ (thơ Tạ Hữu Yên, sau nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn phổ nhạc thành bài hát Đất nước).
- Bài hát: Tiếng đàn bầu của ta / Cung thanh là tiếng mẹ / Cung trầm là giọng cha (bài hát Tiếng đàn bầu, nhạc Nguyễn Đình Phúc, lời thơ Lữ Giang)
- Bài hát Độc huyền cầm của nhạc sĩ Trần Tiến (Độc huyền cầm một buồn lắm / Mấy ai người tri âm / Độc huyền cầm lẻ loi / Bay ngang cánh chim hồng / Bắc phong kỳ tả tơi / Lĩnh nam cầm lả lơi / Khách anh hùng còn ai / Tri âm độc huyền cầm...)
Các tác phẩm đặc sắc của Đàn Bầu
- Nhịp cầu quê hương - St. Toàn Thắng
- Vì miền Nam - St. Huy Thục
- Cung đàn đất nước - St. Xuân Khải
- Khát vọng - St. Lê Hoài Phương
- Nặng tình phương Nam - St. Hồ Hoài Anh
Học đàn Bầu chuyên nghiệp tại Việt Nam
- Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam
- Học viện âm nhạc Huế
- Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh
- Đại học Văn hóa nghệ thuật Quân Đội
- Các trường Đại học Văn hóa nghệ thuật ở các Tỉnh/ Thành phố
Liên kết bên ngoài
- Đàn bầu Việt Nam Lưu trữ 2007-03-12 tại Wayback Machine
- Kinh nghiệm với đàn bầu của nhạc sĩ Hoài Phương (trong Tonight with Viet Thao, episode 60, 2017).
Các nhạc cụ dân tộc Việt Nam | |
---|---|
Alal • Aráp • Bẳng bu • Bro • Cảnh • Chênh kial • Chiêng tre • Chul • Chũm chọe • Cồng chiêng • Cò ke • Đàn bầu • Đàn đá • Đao đao • Đàn đáy • Đàn hồ • Đàn môi • Đàn nhị • Đàn tam • Đàn tranh • Đàn tứ • Đàn tỳ bà • Đàn nguyệt • Đàn sến • Đing năm • Đinh đuk • Đing ktút • Đuk đik • Goong • Goong đe • Guitar phím lõm • Hơgơr prong • Kèn bầu • Kèn lá • Kềnh H'Mông • Khèn bè • Khinh khung • K'lông pút • Knăh ring • K’ny • M'linh • M’nhum • Mõ • Phách • Pi cổng • Pí đôi / Pí pặp • Pí lè • Pí một lao • Pí phướng • Pơ nưng yun • Púa • Rang leh • Rang rai • Sáo H'Mông • Sáo trúc • Sênh tiền • Song lang • Ta in • Ta lư • Ta pòl • Tiêu • Tính tẩu • Thanh la • Tol alao • Tông đing • Tơ đjếp • Tơ nốt • Tam thập lục • Trống cái • Trống cơm • Trống đế • Trống đồng • Trống Paranưng • T’rum • T'rưng • Tù và • Tỳ bà • Vang • |