
Nỗi đau dẫn đến cái chết đó (của nhân vật Laura) ngay lập tức được Iris hòa nhập vào những vết thương từ thuở thơ ấu của hai chị em, không tránh khỏi những vết thương thể chất nhỏ nhặt nhất - tất cả quay về một điểm chung: tính không thể phủ nhận hoặc quên lãng của chúng (những tổn thương được tái tạo thay vì biến mất, những vết thương sau gợi nhớ những vết thương trước), và ngoài ra, sự câm lặng của người bị tổn thương, biến chúng trở thành những vết thương không lời nói, những ký ức bí mật không thể giải phóng, không thể nói ra, không thể kể lại, và vì thế mà mãi mãi thiếu hụt khả năng giao tiếp trầm trọng - ' Có những người không thể nói về nỗi đau ở đâu. Không thể bình tĩnh. Thậm chí không thể ngừng rên rỉ '.
'Đau đớn lúc đó chỉ có thể hiện qua những biểu hiện gốc, và khơi gợi những đồng cảm gốc.'
Cuốn tiểu thuyết, trong vai trò là một thể thức ngôn từ đã hình thành, chắc chắn phản đối điều này từ bản chất. Nó yêu cầu người đọc đụng chạm vào nó, lắng nghe nó ngay khi từ chối chỉ là một tiếng rên dài. Nó khuấy động và tấn công vào trật tự cơ bản nhất - trật tự ngôn từ, làm cho những nguyên tắc được coi là cũ bị đặt ra để nghi ngờ, đặt vấn đề về sự hợp lý của những huyền thoại và mở rộng những ranh giới mà thể loại vốn được coi là rất chặt chẽ, đặt cái cao quý nhất bên cạnh cái đáng khinh thường nhất...
Tác giả, người dệt nên bức tranh ngôn từ đó, là người muốn tái tạo lại những 'vết thương', và hơn thế nữa, yêu cầu khắc sâu chúng vào lịch sử, không muốn chúng bị lãng quên. Hành động viết, với Iris, là một ý chí, vượt lên ngoài bản năng, và vượt lên những phản ứng thụ động của thân thể. Nguy cơ xã hội tiềm ẩn luôn hiện hữu mỗi khi cầm bút.
Không phải ngẫu nhiên khi bà già Iris già nua lại truyền lại lời chúc may mắn cùng lời cảnh báo đáng sợ như một lời nguyền cho một cô gái trẻ đoạt giải văn chương - 'Cầu cho con gặp may. Hãy giữ mình. Bất kỳ ai cố ý đụng vào ý nghĩa đều cần lời chúc phúc ấy, câu cảnh báo ấy'.
Ham muốn viết bắt nguồn từ ý thức về tính mong manh của tồn tại. Ý thức này trở nên mạnh mẽ hơn khi đối mặt trực tiếp với tuổi già và cái chết. Đó là lúc con người thừa nhận sự hạn hẹp của mình, ý chí rụt rè trước thân thể như một 'mạt thịt' sau cuộc hành quyết mù lòa của thời gian.
Thân thể là một tấm thảm, một văn bản do thời gian tạo ra, và sẽ chịu sự phá hủy từ vũ trụ. Thân thể tuổi già tỏ ra 'bị hủy diệt' từ những dấu vết của thời gian và cái chết. Nó trở thành một văn bản xa lạ với ý thức, với mùi vị trần tục của nó và việc bị phủ nhận. Y phục không còn là cách 'viết' của con người, mà là cách vũ trụ quy định.
Sự không rõ ràng giữa thân thể và văn bản, được viết theo những quy luật và thế lực vũ trụ bên ngoài, trở nên rõ ràng hơn mỗi ngày. Nhận thức về việc 'bị viết' đến mức không kiểm soát được của thân thể đi kèm với sự hoài nghi về sự thuộc về của nó, mà thuộc về những nguyên tắc tối tăm của vũ trụ. Sự không tin tưởng vào thân thể chưa bao giờ rõ ràng như vậy. Thân thể có nguy cơ tẩy xóa chính nó, đồng thời, tẩy xóa mọi tồn tại khác của bản thân.
'Thời gian tạo nên thân thể, và nó có quyền quên hoặc xóa đi 'vết mực' đó.
Quan trọng là để lại dấu vết ngoài cơ thể, một dấu vết có thể được ghi vào lịch sử và kí ức của nhiều người. Càng viết, Iris càng gợi mờ những người xung quanh trở thành 'độc giả tưởng tượng', những người có trách nhiệm lưu giữ kí ức, như một hiện thực từ quá khứ. Dấu vết đó sẽ trở nên vĩnh cửu khi nó được ghi vào kí ức cộng đồng. Với Iris, khả năng này không phải là điều chưa được chứng minh. Iris cực kỳ cẩn trọng với những 'dấu vết' của mình, đến mức sử dụng cả Laura, mượn tên của cô em gái đã qua đời để thử nghiệm vết tích. Dù thế nào, thời gian viết, tự nó đã là một hành động phản kháng.
Trong tiểu thuyết của Atwood, quá khứ – hiện tại – tương lai liên tục được hồi sinh (tương ứng với truyền thuyết/thần thoại/quá khứ lịch sử – tiểu thuyết hiện thực – truyện viễn tưởng). Lịch sử không gì ngoài các chu kỳ lặp lại, luôn là cuộc đấu tranh, tàn sát, và dã man. Ý niệm về tiến bộ gần như hoàn toàn biến mất. Các sự kiện lịch sử không còn gây bất ngờ ngoại trừ nỗi kinh hoàng về máu tanh. Hiện tại đồng thời là quá khứ và là dấu hiệu của tương lai. Những điều chưa từng xảy ra được tạo ra trong mỗi câu chuyện viễn tưởng chỉ là biến thể khác của hiện tại, hoặc là một ẩn dụ khác về hiện tại.
Một lịch sử gia đình, qua các thế hệ, cũng làm hình thành thân thể của phụ nữ.
Với quá khứ, con người hiện tại chỉ là những hình ảnh câm lặng, không thể nói. Sự lặp lại không ngớt của tính bất khả “không thể tranh cãi lại” tiếp tục ám ảnh Iris. Không chỉ với bà, mà còn với người mẹ đang trong cơn suy tư sâu – “Tôi chỉ muốn nói rằng mẹ đã hiểu nhầm, hiểu sai ý định của tôi. Không phải tôi cố gắng làm chị tốt của Laura, điều đó hoàn toàn trái ngược… Nhưng tôi không tìm ra lời để biện hộ, chống lại cái nhìn của mẹ tôi. Tôi không biết là mình sẽ bị giam vào hình ảnh mà mẹ vẽ về tôi; vào hình ảnh mà mẹ tưởng tượng về phẩm chất tốt của tôi, gắn bó với tôi như một chiếc huy chương, không thể tách ra và vứt bỏ”
Tự miêu tả bản thân như Laura, Iris lại trở về với hình ảnh một khuôn mặt câm lặng, một “gương mặt không biểu lộ điều gì cả”, một “vẻ không thể xâm phạm không trống rỗng”, một “bảng trắng chờ viết, không chờ được viết vào”. Một khuôn mặt tĩnh lặng tuyệt đối như vậy cũng được Iris thể hiện khi nghe tin hôn nhân được định sẵn, thậm chí sau khi kết hôn với Richard – “Tôi mỉm cười, đồng ý, nhưng không nghe”. Một lần nữa, những mặt này lần lượt nối tiếp nhau. Phụ nữ không thể thoát khỏi số phận của mình khi chạy vào thế giới huyền thoại. Số phận của Iris dường như đã tìm ra dấu vết ngay trong những hình ảnh của những thiếu nữ hiến tế. Hoặc, cố gắng chạy trốn vào huyền thoại cũng khiến phụ nữ rơi vào bẫy. Ví dụ, Iris hoặc Laura, mỗi lần họ cố gắng tiếp cận hình ảnh huyền thoại về sự hi sinh của phụ nữ, đều là lúc họ tự mình mù lòa. Iris không thể tìm sự an ủi trong ý niệm về việc hy sinh cho gia đình, vì thực tế, không có sự cứu rỗi nào, và vì thế, không có sự hi sinh nào. Chọn Richard chỉ là cách Iris tự đẩy mình vào “bẫy”, và sau đó khiến bản thân mình mù lòa hơn trước tình cảnh đau khổ của gia đình, trước sự chết của người cha và nỗi đau sợ hãi của em gái. Ý niệm “hy sinh” cũng đã khiến Laura biến thành một nạn nhân câm lặng của lạm dụng tình dục.
Thực tế không phải như vậy. Sự thật là cô gái đó luôn cố gắng hiểu rõ những đau đớn cá nhân, để nhận biết tính độc hại của các quy tắc và truyền thống. Sự thực là cô đã cố gắng xâm phạm “ngôn ngữ thiêng liêng” (với những ngôi đền khác kèm theo) bằng cách cắt bỏ các phần trong Kinh Thánh mà cô không đồng ý. Việc cắt bỏ thực sự là việc viết lại, tạo ra một văn bản mới, tương tác với văn bản cũ mà mọi người xem là tối thượng. Điều này cũng là việc viết lại bản thân, giải thoát khỏi các quy tắc hiện có.
Người phản đối mạnh mẽ truyền thống gia đình có lẽ cũng là Laura, thông qua việc tô màu lại những bức ảnh chân dung tổ tiên trong thư viện. Khác với Iris, Laura từ lâu đã không chấp nhận tiếng nói áp đặt từ quá khứ, mong muốn sự thay đổi, tự do trong giao tiếp với các lực lượng đã mất nhưng vẫn quyền lực. Laura không yên lặng sau khi bị lạm dụng tình dục. Bàn tay tô màu đỏ của Richard trong ảnh cưới sau này mà Iris tìm thấy là minh chứng cho điều đó. Laura không câm lặng, cô chỉ đang cố gắng thể hiện theo cách của riêng mình.
Đến lượt mình, Iris nhận trách nhiệm của kẻ can dự, chuyển hóa mọi chấn thương (của mình và của em gái) thành văn bản ngôn từ cộng đồng hơn – những cuốn tiểu thuyết. Việc viết – như sợi tơ dệt thảm – nhịp tim/hơi thở, cùng với văn bản – thảm dệt – thân thể là những hình ảnh đồng nhất, ẩn dụ cho nhau. Tìm kiếm một tồn tại khác trong ngôn ngữ đòi hỏi khả năng đan xen tinh tế, phải chấp nhận thực tế khó khăn hơn, ít ảo tưởng hơn, thậm chí phải đối mặt trực tiếp với nỗi đau. Điều duy nhất an ủi của người viết, như Iris, có lẽ là ý thức rằng việc viết không cô đơn, khi có Laura đồng hành, và cả “một bầy đoàn ma nữ đang cùng tôi cầm bút” – liệu đó có phải là tiếng nói của những phụ nữ xuyên suốt lịch sử?
Theo Tia sáng
Mytour biên tập