1. Mẫu số 1
2. Mẫu số 2
3. Mẫu số 3
4. Mẫu số 4
5. Mẫu số 5
Đề bài: Nhận định bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
Danh sách 5 bài văn mẫu nhận xét về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
1. Đánh giá bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, mẫu số 1:
Chủ đề về trăng luôn là một đề tài quen thuộc trong thơ, được sử dụng để diễn đạt cảm xúc, vẻ đẹp linh thiêng, và sự suy ngẫm... Mỗi dạng thơ về trăng lại mang một đặc điểm riêng, độc đáo: thơ năm chữ ngắn gọn, giản dị nhưng đầy sức sống, Nguyễn Duy đã khởi đầu bài thơ bằng một hồi ức xa xăm về trăng:
Khi còn nhỏ sống giữa đồng
với sông, sau đó là với biển
trong những ngày chiến tranh ở rừng
vẻ đẹp của trăng trở thành ký ức tri kỉ
Hương vị thơ tự nhiên như những câu chuyện tình cảm dịu dàng, thoải mái từ ký ức quý giá hiện hóa trong tâm trí tác giả. Nguyễn Duy lưu giữ những kí ức yêu thương về thời thơ ấu hạnh phúc giữa những cánh đồng mênh mông, nhớ về những năm chiến tranh đầy gian khổ ở nơi núi rừng - những biến động, niềm vui buồn trong cuộc sống, sự trưởng thành của con người ở mọi nơi, mọi lúc đều có sự chia sẻ của Trăng - người bạn tri kỉ.
Trăng là tri kỉ vì nó hiểu con người; trăng cảm thông với con người trong những tình huống khó khăn, và những tình cảm trung thành và bền vững mà trăng và con người chia sẻ trong những thời kì khó khăn, cũng như trong những khoảnh khắc ngọt ngào; tình cảm đó là thực sự vững chắc, sâu sắc; không hoa mỹ tỏ ra, tự nhiên, không có chút lợi ích cá nhân toan tính:
Bình dị như tâm hồn thiên nhiên
thuần khiết như cây cỏ
Trăng và con người - hai hình tượng thơ liên kết chặt nhau trong bốn dòng thơ nhưng trăng hiện diện rõ ràng trong khi con người lại bị che lấp, ẩn đi. Có vẻ như sự hiện hữu phải được thể hiện, nhưng Nguyễn Duy lại chọn cho sự ẩn mình lên trước. Và bốn dòng thơ không chỉ là câu chuyện mà là tiếng nói từ tâm hồn con người, lời xin lỗi trễ tràng. Trăng liên kết với con người bởi sự tri kỉ, và đó là lý do tại sao nhà thơ cảm thán: có lẽ không thể quên được cái vẻ đẹp của vầng trăng đầy ý nghĩa. Cuộc sống là nơi chứa đựng nhiều điều mà ta không thể ngờ đến, những hạnh phúc giản đơn, bình dị mà chúng ta đã có thỉnh thoảng lại trôi qua giữa tay, tự mình đánh mất, đánh mất chính bản thân, cũng như những điều quý giá nhất. Trước bước đời đầy hối hả, sự đua đòi, những lấp ló ánh đèn sáng làm mờ đi những hạnh phúc bình dị của ngày xưa; làm chúng ta quên đi những ký ức của một thời khó khăn và cũng vô tình làm lãng quên một người bạn tri kỉ đáng quý:
Khi trở về thành phố
quen với ánh sáng đèn điện
vầng trăng lướt qua ngõ
như người xa lạ qua đường
Top những đánh giá hay nhất về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
Hình ảnh vầng trăng ở hai dòng thơ trên giống như một con người, chỉ để người đọc hiểu ngầm, khi sang dòng thơ thứ hai, vầng trăng được nhân cách hóa thành một người cụ thể. Cứ tưởng vẫn là người ấy - tri kỉ và nghĩa tình nhiều, nhưng... không! Trăng vẫn tri kỉ, nghĩa tình đó vẫn còn, chỉ có trái tim người không còn tri kỉ với trăng, chỉ xem trăng như người qua đường, người xa lạ, nước lã: xa lạ, lạnh nhạt như chưa từng gặp, chưa hề quen thuộc; một sự thật đau lòng bởi lòng người thay đổi không ngừng, không ai có thể đoán trước được.
Quỹ đạo của cuộc sống và dòng đời trong xô bồ khiến con người bận rộn, vội vã, đắm chìm trong cuộc sống nhanh chóng. Nhưng cuộc sống là một chuỗi liên tục những nguyên nhân - kết quả, có thời may, có thời rủi, có thời thành công, có thời thất bại, có thời vui vẻ, có thời buồn bã, và sự thay đổi là điều tất yếu để mỗi người trở nên hoàn thiện hơn: Đột nhiên đèn điện tắt/ Phòng tối om. Một sự kiện bình thường, tình cờ trong cuộc sống hiện đại được Nguyễn Duy đưa vào thơ và sử dụng một cách khéo léo, đưa bài thơ lên đến đỉnh điểm: nếu không có sự kiện đó, chắc chẳng ai nhìn lại bản thân để nhận ra sự thay đổi vô thức của mình.
Đột ngột đèn điện tắt
phòng tối bóng om
mở cửa sổ vội vã
vầng trăng đột ngột tròn
Toàn bộ khổ thơ như một chuỗi các hành động liên tục, liên tiếp, nhanh chóng, hối hả để rồi bất ngờ, ngạc nhiên không nói thành lời: Đột ngột vầng trăng tròn.
Đột nhiên ta tự hỏi tại sao là trăng tròn mà không phải là trăng khuyết? Một câu hỏi khó trả lời khi tròn và khuyết là quy luật của tự nhiên. Nhưng trăng ở đây đã được nhân cách hóa với những suy nghĩ, tâm tư rất con người, rất thường ngày: Trăng vẫn tròn và hoàn hảo / Vì sao người lạnh lùng. Khuyết vụng trong tâm hồn con người bỗng trở nên nhụt chí, lúng túng trước trăng, trước vẻ hoàn hảo; lòng trung thành trước sau như là một bản chất của trăng. Mong rằng trăng có thể khuyết đi để lòng người không phải ân hận, giảm bớt xấu hổ trước trăng:
Ngửa mặt nhìn bức mặt
có điều gì rưng rưng
như đồng bằng bao la
như dòng sông quen thuộc
Một khoảnh khắc tĩnh lặng trong thực tại, nhưng nội tâm con người đang tràn ngập cảm xúc đến đỉnh điểm. Tất cả những kí ức của một quá khứ xa xăm, thời kỳ khó khăn, những liên kết từ thuở nào bất ngờ hiện hữu trước mắt:
Trăng! Đó là những hồi ức về tuổi thơ hạnh phúc.
Trăng! Đó là đồng cỏ mênh mông, quê hương làng xóm và những người thân yêu ruột thịt.
Trăng! Đó còn là sông, rừng, và những người đồng đội đồng lòng.
Trăng! Đó là những khoảnh khắc vui buồn, hạnh phúc và những trải nghiệm đắng cay ngọt bùi. Thế mà lòng người đã quên nhanh chóng, giờ đây lại đột ngột tỉnh giấc, hối tiếc và xót xa, để rơi lệ không lời.
Một lần nữa, hình ảnh trăng được nhân hóa. Đây không còn là mặt trăng bình thường nữa. Đó là khuôn mặt của một người bạn tri kỷ, vẻ mặt hiện diện trước trăng. Qua bao biến động, người bạn ấy vẫn trung thành và nhân ái như thuở xưa.
Nhà thơ Nguyễn Duy tìm ra một góc nhìn thông minh và tinh tế; chi tiết và cụ thể. Tại sao không phải là trăng nghiêng; trăng ở xa hay trăng nhấp nhô, mà lại là trăng ở trên đỉnh đầu để phải nhìn lên mặt trăng?
Có lẽ đó cũng là ý đồ của tác giả? Vì trăng bao la, nhân ái như thế. Từ góc nhìn của nhà thơ, ánh trăng lan tỏa rộng lớn; chiếu sáng và bao bọc. Không gian mênh mông được tràn ngập ánh trăng - vẻ đẹp của ánh sáng ngọc ngà tinh khiết. Trong khổ thơ, thời gian và không gian (trăng rọi đỉnh đầu) đã làm cho chúng ta nhận ra rằng nó không phải là quá sớm, nhưng cũng không quá trễ để nhận ra mọi thứ. Tác giả có lẽ đã đồng nhất thời gian trong hiện thực và thời gian trong tâm trí con người? Hình ảnh trăng ở đây đạt đến đỉnh cao của sự thành công. Nó mang trong mình ý nghĩa sâu sắc, một giá trị nhân văn to lớn. Trăng không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên; nó trở thành biểu tượng cho một thế hệ, một tầng lớp xã hội. Một thế hệ đã cống hiến và hy sinh trong những thời kỳ khó khăn, những năm tháng gian khổ của đất nước; những người mang theo bao nhiêu nỗi đau và kiếp sống giữa cuộc sống bình yên. Trong số họ có những người quay về nhưng còn những người đã đánh mất một phần cơ thể và tâm hồn ở chiến trường, và những người chỉ mang theo chiếc ba lô đơn sơ nhưng vẫn sống với tình yêu thương đối với quê hương và đồng đội. Một tấm lòng cao cả, dung tử, và niềm tin vào cuộc sống. Tình cảm của họ vẫn nguyên vẹn, không thay đổi, như một hình bóng bền vững trước thách thức của thời gian và số phận.
Trăng trở về với bản thân mình; giản dị, tự nhiên, mộc mạc:
Trăng vẫn tròn và rạng ngời
kể cho người vô tình nghe
ánh trăng im lặng phăng phắc
đủ để làm cho chúng ta giật mình.
Nghệ thuật của tác giả khiến hình ảnh trong thơ trở nên sâu sắc, ghi sâu vào tâm trí con người, làm cho họ phải tự xem xét lương tâm và suy ngẫm về bản thân. Hai câu cuối cùng của bài thơ nhẹ nhàng nhưng chứa đựng sức mạnh, tạo ra sự giật mình. Đó cũng chính là thông điệp mà Nguyễn Duy muốn truyền đạt: cuộc sống ngày nay có thể ồn ào, náo nhiệt, nhưng mỗi người chỉ cần một khoảnh khắc để tự nhìn nhận mình và làm cho cuộc sống trở nên ý nghĩa và đáng giá.
Nguyễn Duy, một trong những nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ, là biểu tượng của lớp thơ trẻ yêu nước trong cuộc chiến tranh. Sau thời kỳ giải phóng, ông tiếp tục sáng tác mạnh mẽ, đóng góp cho văn chương sau chiến tranh. Thơ của Nguyễn Duy thường mang đặc điểm ngang tàng nhưng vẫn tĩnh lặng và sâu sắc, khiến độc giả đắm chìm và suy ngẫm. Bài thơ Ánh trăng là một ví dụ sâu sắc về nghệ thuật của ông.
Khổ thơ thứ nhất đưa ra hình ảnh về vầng trăng kết nối với tuổi thơ tươi đẹp và hình ảnh vầng trăng trong cuộc chiến tranh, biểu tượng cho lòng trung hiếu và trung thành.
Bài thơ được xây dựng như một câu chuyện tuân theo trình tự thời gian. 'Ánh trăng' là hình ảnh quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc. Tác phẩm mở đầu bằng hồi ức về thời thơ ấu của tác giả:
'Nhỏ bé sống cùng đồng
cùng sông, rồi cùng biển'.
Từ 'với' được lặp lại ba lần, thể hiện sự hòa mình mạnh mẽ giữa con người và thiên nhiên. Cánh đồng, dòng sông, biển cả là những hình ảnh thân quen, gần gũi, đại diện cho quê hương máu thịt, nơi đánh dấu bằng kí ức ngây thơ và tinh nghịch tuổi thơ.
Bốn câu thơ ấy một cách ấn tượng thể hiện sự vận động của các hình ảnh. Có lẽ khi con người trưởng thành, họ gắn bó với cánh đồng - biểu tượng của tâm hồn trong sáng, điềm tĩnh. Khi bước chân xa hơn đến sông, rồi bể biển - đại diện cho sự trưởng thành và khao khát vươn xa.
Trong bối cảnh lịch sử đen tối, khi con người đối mặt với chiến tranh, vầng trăng vẫn bám sát, hỗ trợ họ trên mọi con đường:
'trong rừng chiến tranh nơi
vầng trăng là tri kỷ'.
Đánh giá về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, một mẫu văn chọn lọc
Những người bạn thân thiết, hiểu biết nhau như hiểu rõ bản thân nên gọi là tri kỉ. Trong những năm chiến đấu, vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ tâm giao của người lính. Người chiến sĩ thường ngồi cùng nhau dưới ánh trăng thanh hoặc hành quân dưới bầu trời trăng.
Trăng soi đường đi, cùng chia sẻ khó khăn, gian khổ; cùng chiến đấu và đạt được chiến thắng. Vầng trăng trong sáng tinh khiết còn là biểu tượng của lý tưởng và tâm hồn cao quý của con người. Tâm hồn ấy được nuôi dưỡng từ thời thơ ấu, được rèn luyện trong cuộc chiến tranh hào hùng của dân tộc.
Khổ thứ hai: Nhận định của nhà thơ về vầng trăng nghĩa tình
Chuyển đến khổ thơ thứ hai, hình ảnh vầng trăng hiện lên rõ nét
'Tỏa trắng với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ'.
Trăng trở nên vô cùng đẹp đẽ và giản dị. Việc sử dụng hai tính từ kép 'tỏa trắng' và 'hồn nhiên' ở đầu câu thơ là một đặc điểm của tác giả. Điều này tạo ra một sự mô tả mạnh mẽ và tràn đầy cảm xúc, vẻ đẹp tự do và hồn nhiên. Trăng là biểu tượng của vẻ đẹp tự nhiên, hòa mình vào thiên nhiên, gắn bó với cây cỏ. Vầng trăng đó cũng kết nối với con người qua một tình cảm chân thực, trung thành. Ai có thể quên được người bạn tri kỉ ấy?
'có lẽ mãi mãi không quên
được vầng trăng tình nghĩa'
'Vầng trăng tình nghĩa' không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên tươi đẹp, mát lành. Nó còn là biểu tượng của quá khứ đẹp đẽ, những kỷ niệm về cuộc sống bền vững, tinh khôi, trong sáng, những thời kỳ chiến tranh đầy nguy hiểm mà tình bạn vẫn luôn bền chặt.
Khổ thứ ba: Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại và sự vô tâm của con người
Chiến tranh lạc lõng kết thúc, cuộc sống của con người trải qua những biến động:
'Quay về thành phố
quen ánh sáng đèn cửa sổ'
Con người hiện sống trong một bối cảnh hoàn toàn khác: 'ánh sáng điện' và 'cửa sổ gương'. Sự ồn ào của thành phố, những công việc mưu sinh ngày xưa giờ đã trở nên mờ nhạt. 'Vầng trăng tình nghĩa' đã bị quên lãng. Người tri kỷ kia giờ đây trở thành 'người xa lạ'. Một so sánh đau lòng khiến người đọc cảm thấy buồn bã:
'Trăng đi qua ngõ
như người xa lạ qua đường'.
Trăng được nhân hóa, bước đi trong tĩnh lặng. Vầng trăng biến thành 'người xa lạ', không ai còn nhớ, không ai quan tâm. Tiếng thơ đưa người đọc đến cảm giác sâu lắng, buồn bã đến tận cùng!
Khổ thứ tư: Sự cố bất ngờ làm con người nhận ra sự vô tâm của mình
'Bi kịch' của tác phẩm nổi bật qua hai câu thơ rất thực tế, thậm chí còn thực tế hơn cả lời nói hàng ngày:
'Đèn điện tắt bất thình lình
phòng buồn, đêm đen bao trùm'.
'Đèn điện', 'phòng buồn' là những biểu tượng cho thực tế vật chất mà con người bị rơi vào. Nhưng chúng lạnh lùng, không có tâm hồn đối với con người. 'Đèn điện' tắt bất thình lình, 'phòng buồn' trở nên đen tối. Chúng không bao giờ là 'tri kỷ', không phải là 'tình nghĩa' đối với con người. Liệu điều gì có thể giúp con người thoát khỏi cảnh đen tối ấy, hay họ sẽ mất mát trong bóng tối lạnh lẽo đó?
'Nhanh chóng mở cửa sổ rộng
đột ngột ánh trăng tròn'.
Hành động 'mở cửa sổ rộng' tự nhiên như một bản năng không cần sự chuẩn bị. Cảm giác 'đột ngột' làm ta thấu hiểu rằng con người thực sự không biết điều gì đang chờ đợi ngoài kia. Anh ta không hay biết rằng người bạn 'tri kỷ', 'tình nghĩa', người mà con người coi là 'người xa lạ' vẫn luôn sẵn sàng hiện hữu. Vầng trăng kia không bao giờ bỏ rơi con người, dù họ có vô tình lãng quên. Hình ảnh này là minh chứng cho tính vị tha, lòng bền vững ẩn sâu trong tâm hồn Việt Nam. Khổ thơ này tạo ra ấn tượng đặc biệt với toàn bộ bài thơ.
Khổ thứ năm. Tâm tư của tác giả khi đối mặt với 'người thân' giữa thành thị
Trăng vẫn như xưa, đến với người một cách không thay đổi. Tròn, đẹp, và trung thành. Người ngắm trăng sau đó đưa ra suy ngẫm:
'Ngước mặt nhìn mặt trăng
có điều gì đó xao xuyến'.
Con người đang đối mặt với trăng, với những giá trị tinh thần mình từng lãng quên, từ chối. Hai 'mặt' ấy mãi là một, không thể tách rời và chưa bao giờ tách rời. Chỉ vì con người đã quá chìm đắm trong vật chất, trong sự giàu có hào nhoáng, mà quên mất điều quan trọng nhất. Từ ngôn ngữ 'rưng rưng' thể hiện rõ sự xao lạc của con người trong khoảnh khắc này. Điều khiến họ 'rưng rưng' là gì, nếu không phải là:
'như là đồng là biển
như là sông là rừng'.
Từ ngữ 'như là' được lặp lại bốn lần. Bốn hình ảnh quen thuộc từ quá khứ hiện về trong tâm trí: 'đồng', 'biển', 'sông', 'rừng'. Sự tái hiện những hình ảnh này làm sáng tỏ những điều mà con người đang trải qua. Ký ức về những thời kỳ ôn hoà, vẻ đẹp thân thương không bao giờ phai nhạt. Chúng chỉ hiện diện yên bình trong tâm hồn con người.
Khổ thứ sáu: Tâm tư của nhà thơ về ý nghĩa cuộc sống, tình người và nhắc nhở về trách nhiệm với quá khứ
Trăng vẫn giữ nguyên vẻ đẹp, sự chung thủy khiến người đọc phải ngỡ ngàng, đầy cảm động:
'Vầng trăng vẫn tròn và tỏa sáng
thậm chí khi người vô tình.'
Ngay cả khi người ta vô tâm, vầng trăng vẫn giữ nguyên vẻ tròn và rạng rỡ, biểu tượng cho những giá trị bền vững và thiết yếu luôn bảo vệ con người một cách vô hình. Khi con người quay về nguồn gốc tinh thần của mình, họ mới nhận ra đã lãng phí quá nhiều điều quý giá:
'Ánh trăng tỏa sáng phẳng phiu
đủ để khiến ta giật mình.'
Trăng như người tri kỷ, là nhân chứng của nghĩa tình đang nghiêm túc nhắc nhở con người. Tình cảnh 'im phăng phắc' giống như một hướng dẫn nghiêm túc chỉ về quá khứ đầy nghĩa tình mà con người đã vô tình quên mất, tự bỏ quên... Hai từ 'giật mình' ở cuối bài như một lời sám hối, làm con người tự cảnh tỉnh về chính mình.
Như một lời nhắc nhỏ, bài thơ không chỉ ý nghĩa với một thế hệ mới trải qua chiến tranh mà còn có ý nghĩa với nhiều người khác. Nó đề xuất một tư thế sống đối với quá khứ, với những người đã khuất và chính bản thân mình. Hãy giữ cho quá khứ luôn sống, trung thành với nghĩa tình bình dị của đất nước và nhân dân. Đó là thông điệp mà tác giả muốn truyền đạt qua bài thơ.
'Ánh trăng' của Nguyễn Duy đã gây ấn tượng mạnh mẽ với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn đạt chân thành và bình dị. Giọng thơ trầm lắng, sâu sắc. Từ ngôn ngữ bất ngờ và mới mẻ. Tác phẩm như một cuộc trò chuyện tâm sự, nhắc nhở về tình nghĩa trung thành, bài học đạo đức 'Uống nước nhớ nguồn' sâu sắc, khiến người đọc phải giật mình, suy ngẫm về chính bản thân.
3. Cảm nhận bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, mẫu số 3:
Tình cảm là hạt giống quan trọng nhất cho mỗi con người, như dòng nước ngọt mát tưới tắm tâm hồn, làm sống lại hạt giống tinh thần bên trong. Thiếu đi vị ngọt của tình cảm, con người trở thành ống nước rỗng ruột, tâm hồn khô cứng như sa mạc. Tình cảm trong quá khứ, dù khó khăn, là giọt sương tình thương, gắn kết, vượt qua gian khó. Nhưng trong xã hội hiện đại, có người chạy theo vật chất, quên mất tình yêu thương quá khứ. Bài thơ 'Ánh trăng' của Nguyễn Duy nhẹ nhàng nhắc nhở họ, hãy dừng lại, nhớ về quá khứ, trân trọng những điều đã từng là của mình.
Vầng trăng luôn là nguồn cảm hứng không ngừng trong thơ, gắn bó chặt chẽ với cuộc sống: Trăng soi bóng những tối cùng nhau lao động vui tươi của người nông dân:
'Đêm thanh, trăng tàn canh, tiếng chày nhanh nhanh
Dư âm xa, vang mãi trong đêm trăng tà'
('Gạo trắng trăng thanh')
Đây là điều gì đó lãng mạn như bài thơ 'Say trăng' của Hàn Mặc Tử:
'Bay lên nào! Ta bay lên!
Gió hồi hương ta đến nơi nguyệt thiềm...'
Là nhân chứng cho những lời thề tình tự của đôi tình nhân:
'Vầng trăng sáng soi giữa bầu trời
Đinh ninh hai trái tim, một lời hứa song song'
('Truyện Kiều')
Cảm nhận về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy để hiểu tâm trạng của nhà thơ
Trăng còn là tri âm, tri kỉ, người bạn thân thương từ thời thơ ấu, là kí ức về quê hương như trong chủ đề 'Nguyệt vọng hoài hương' của thơ văn cổ. Nguyễn Duy mang đến cái nhìn mới về trăng, biểu tượng của tình cảm qua các giai đoạn thời gian: từ những kỷ niệm đẹp của tuổi trẻ, đến những thăng trầm của cuộc chiến đấu, và cuối cùng là biểu tượng của nghĩa tình. 'Ánh trăng' đậm chất cảm xúc, là tác phẩm đặc biệt với lối viết mới mẻ: chữ đầu mỗi câu thơ không viết hoa. Bài thơ kết hợp âm điệu nhịp nhàng với mạch cảm xúc sâu sắc, hiện thị theo thứ tự thời gian.
Bài thơ bắt đầu với hồi tưởng về thời thơ ấu, về những năm tháng chiến đấu giành tự do, một thời kỳ đầy cảm xúc:
'Hồi bé sống cùng đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ'
'Hồi' biểu thị thời gian trong quá khứ. Trong khoảng thời gian ấy con người đã có những phút giây sống hòa mình với thiên nhiên. 'Đồng, sông, bể' hiện lên như những khung cảnh thuở thơ ấu, nơi con người trải qua những khoảnh khắc bình yên, đằm thắm với tâm hồn trẻ con vô tư. 'Sông' chảy dạt trong vắt, nước soi tóc những hàng tre, soi bóng cái tâm hồn ngây thơ, ước mơ của tuổi thơ. 'Bể' hiền hậu, mang theo con sóng vỗ bờ, đong đầy hoài bão tuổi hồng mộng mơ. 'Đồng, sông, bể' trở thành những người bạn thân thiết, gắn bó với nhân vật trữ tình, như những kỷ niệm dịu dàng từ quá khứ, người bạn đồng hành qua thăng trầm cuộc đời.
'hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ'
Biện pháp nhân hóa biến trăng thành 'tri kỉ', người bạn chí cốt luôn hiểu hết về nhau. Giữa những thử thách của chiến tranh, vầng trăng là người bạn trung thành, chia sẻ niềm vui, đồng cam cộng khổ. Người lính và vầng trăng cùng nhau trải qua những khoảnh khắc khó khăn, giữ vững tinh thần trong bóng tối. Vầng trăng vẫn tròn đầy dù qua bao khó khăn, sáng bóng giữa cuộc sống chiến đấu, là nguồn sáng không bao giờ tắt trong lòng người lính.
'Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ'
Vầng trăng xưa kia tuyệt vời đến đâu! Sự kết hợp tinh tế 'trần trụi với thiên nhiên' làm nổi bật vẻ hiền hòa của ánh trăng. Đó là hình ảnh của con người ngày nay: chân thành, không giả dối, không lọc lừa, không chứa đựng những âm mưu quỷ quyệt. Nét trong sáng, chân thật như tuổi thơ, cùng với nhiệt huyết trẻ trung của người lính trẻ, so sánh ánh trăng với vẻ hồn nhiên như cây cỏ của Nguyễn Duy làm cho chúng ta hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của ánh trăng quá khứ. 'Cây cỏ' - những vật thể tưởng chừng vô tri giác nhưng mang ý nghĩa lớn: chúng tạo ra không khí trong lành, sống cuộc sống hồn nhiên, không ganh đua với đời, không nghi ngờ mà tự nhiên, hòa mình với mọi người và mọi vật. Ánh trăng ngày ấy tự nhiên, không che đậy, gần gũi với hoang sơ như hình dáng mộc mạc của người lính, tỏa sáng rực rỡ, đẹp đến mức nhân vật trữ tính - người lính không khỏi ngỡ ngàng nói:
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Từ 'ngỡ' ở đây hòa mình trong tâm trạng, nhấn mạnh sự mơ hồ, dự báo về sự lãng quên. Lãng quên cái vầng trăng tròn đầy tình nghĩa, giản dị như cây cỏ, thân thiện như người lính trẻ đã chia sẻ tâm huyết với thiên nhiên. Đoạn thơ thể hiện rõ nỗi đau trong lòng con người: Luôn tin rằng sẽ nhớ mãi, sẽ khắc sâu trong tâm trí nhưng rồi dường như, chúng ta không thể đi suốt cuộc đời với ánh trăng tình nghĩa kia nữa. Bởi vì nó đã bị chúng ta để lại, cùng với những kí ức đáng nhớ của một thời đã qua. Ý thơ gợi nhớ, làm thức tỉnh lương tâm những người vô tâm, nhắc nhở về cái 'vầng trăng tình nghĩa', biểu tượng tươi đẹp của quá khứ huy hoàng.
Chiếc thuyền ghi chép bao kỷ niệm đã lặn sâu vào quá khứ, theo dòng thời gian bất tận. Chiến tranh kết thúc, người lính trở về, nhưng không về 'đồng, sông, bể' thân thương mà là chốn đô thị náo nhiệt. Cuộc sống chiến đấu nay đã qua, tình cảm xưa giờ ẩn sau đâu? Trong bài thơ, tác giả nói về điều đó:
'Về thành phố quen
với ánh sáng điện, cửa kính
vầng trăng qua ngõ
như người xa lạ bước qua'
Câu thơ quay trở lại thực tại, thoát khỏi kí ức của nhân vật. Ở hiện tại, nhân vật quen với tiện ích vật chất, 'ánh sáng điện, cửa kính' bóng loáng giả mạo. Hình ảnh so sánh giữa 'vầng trăng tình nghĩa' và 'ánh sáng điện, cửa kính' làm nổi bật sự kém quan trọng của sự nhân tạo. Ánh sáng nhân tạo không thể so sánh với ánh sáng tình nghĩa mà trăng mang lại. Điều hết sức bi thảm là ánh sáng nhân tạo, cuộc sống đầy đủ vật chất đã lấn át nhu cầu tinh thần, tình cảm quan trọng như máu thịt của người lính. Vầng trăng ngày xưa giờ chỉ là ký ức, ký ức nhạt nhòa về thời gian xa xôi. Sự xa hoa đã che mờ 'vầng trăng tình nghĩa', và thời gian đã thay đổi bản chất, tâm hồn con người. Giờ đây, khi anh lính bị mù mắt bởi phồn thịnh đô thị, người không thể nhìn thấy sự hiện diện của trăng, dù trăng vẫn 'qua ngõ'. Trăng vẫn tồn tại, sáng vằng, không thay đổi, nhưng đáng tiếc lòng người đã thay đổi_ không còn đủ tinh tế để hòa mình với trăng, không còn đủ yêu thương để kết nối với quá khứ. Với người lính lúc này, trăng chẳng khác gì 'người xa lạ bước qua', lạnh lùng, không đáng để chú ý. Trăng trở thành 'người xa lạ', hờ hững, lạnh lùng, mất đi giá trị quý báu như người lính đã nói:
Trăng lại hiện lên, trong tình huống bất ngờ, kịch tính:
'Bất ngờ đèn sáng sập
phòng chìm trong bóng tối
quay nhanh khung cửa sổ
làm vầng trăng tỏa sáng'
Mất điện. Phòng bóng tối. Nhân vật tự nhiên 'quay nhanh khung cửa sổ', và ngay lúc đó, ánh trăng tròn tỏa sáng_ hiện lên như nghĩa tình không phai nhòa theo thời gian_ một cách 'bất ngờ'. Cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ được thể hiện qua từ ngữ 'thình lình, vội, quay nhanh, đột ngột'. Trăng không chỉ xuất hiện khi 'đèn sáng sập', mà luôn ở đó, luôn trung thành với người, nhưng sự vô tâm lạnh lùng đã ngăn cản nhân vật để ý đến trăng. 'Quay nhanh khung cửa sổ', cái cửa sổ không chỉ là cửa sổ bình thường, mà là rào cản ngăn tâm hồn con người rời xa quá khứ, là bức tường chia lìa tình cảm, làm mất đi ánh sáng tình nghĩa của vầng trăng yêu thương. Khi 'bật tung cửa sổ' vội vã, không còn gì cản trở, người lính mới nhận ra trăng, một cách thình lình và đột ngột, như không ngờ, không nghĩ tới. Trăng vẫn tròn như những nghĩa tình vẫn trọn vẹn, vẫn hiện diện bên cạnh nhân vật như thuở ấu thơ, như thời chiến đấu; nhưng người đã không còn nhớ gì cả. Gặp lại, người lính cảm thấy ngỡ ngàng tột độ, và sau đó:
'Ngẩng mặt nhìn vầng trăng
có điều gì xúc động
như là đồng là bể
như là sông là rừng'
Hai từ 'mặt' trong cùng một dòng thơ: mặt người và mặt trăng, mặt đối mặt, lòng đối lòng. Bao cảm xúc bên trong nhân vật trữ tình lúc này cũng như cánh cửa sổ 'quay nhanh' ra, trào dâng như 'có điều gì xúc động'. Rưng rưng của niềm thương nỗi nhớ, của lãng quên lạnh nhạt với người cũ; của một lương tri thức tỉnh sau những ngày u mê mộng mị; rưng rưng của ân hận ăn năn về thái độ của chính mình. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái 'rưng rưng', cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính. Trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng_ biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa xôi, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao ký niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, 'như là đồng là bể, như là sông là rừng'. Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời ký ức. Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều ký ức thân thương, đánh thức bao tâm tình ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như 'có điều gì xúc động', đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc. Đọc bốn câu thơ, ta thấy thương thay cho trăng và tiếc thay cho người lính.
'Trách sao người vội vã quá
Bỏ lại quá khứ không nhẹ lòng
Làm sao trách lòng phũ phàng
Lãng quên những tình tự yêu thương.'
Nhân vật trữ tình đã có nhiều lần gặp trăng, nhưng luôn bỏ lỡ dịp. Trăng, biểu tượng của ân tình quá khứ, vẫn điềm đạm và bao dung:
'Trăng tròn, vẫn trắng hồng hào
Kể chi người vội vàng lạc quá
Ánh trăng hiền hòa, im lặng
Đủ để lòng ta giật mình.'
Trăng tròn như tình nghĩa trọn vẹn, nhân hậu, trái ngược với sự hờ hững của người. Trăng không trách móc, mà im lặng và bao dung. Tuy vậy, sự bao dung ấy lại làm lòng người đau đớn hơn. Phải chi trăng trách móc, trách mắng người lính thì có lẽ lòng người cũng chẳng đau như thế. Đôi khi sự im lặng là hình phạt nặng nề nhất. 'Ánh trăng hiền hòa'_ cái im lặng của trăng làm cho sóng gió nổi dậy trong tâm trí, làm lương tri nhân vật trữ tình cảm thấy đau đớn, đau đớn đến 'giật mình'. Giật mình như một sự thức tỉnh dữ dội. Bài thơ lắng đọng trong từ 'giật mình', và tâm trạng giật mình đó cũng chính là cái kết của câu chuyện đầy ý nghĩa. Bài học về tri ân quá khứ được viết ra, nhưng con người đã trả giá quá đắt để học nó. Không thể chìm đắm trong quá khứ mà quên mất tương lai, nhưng cũng không thể tiến lên mà không có bước đệm của quá khứ. Trân trọng, khắc ghi, tri ân ký ức. Luôn nhớ, yêu thương, không quên những ngày đã qua. Một triết lý sống giản đơn nhưng sâu sắc: tình người.
Với lời thơ giản dị, hàm súc và giọng điệu tâm tình, bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình. Nó tôn vinh đạo lý sống không bao giờ lỗi thời: uống nước nhớ nguồn. Lời thơ như một tâm sự, nhắc nhở chúng ta sống đầy tình cảm với quá khứ, trân trọng và biết ơn những điều đã và đang thuộc về chúng ta. Nhịp thơ sâu lắng khiến người đọc phải suy ngẫm. Trong khi nói về vầng trăng, bài thơ không phải là về vầng trăng cố hương như 'Tĩnh dạ tứ' của Lý Bạch:
'Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.'
Nhưng thay vào đó, đó là vầng trăng trữ tình, đong đầy yêu thương, chứa đựng vô số cảm xúc về một thời 'ngày ấy' của thiên nhiên, đất nước, cuộc sống và tâm hồn con người. 'Ánh trăng' thực sự để lại nhiều suy nghĩ quý báu trong tâm trí người đọc.
Bài thơ kết thúc, nhưng ánh trăng vẫn tỏa sáng, muốn chiếu rọi những góc khuất trong tâm hồn, để những tâm trạng bị lạc lõng giữa thế giới hối hả có thể tìm về với những khoảnh khắc bình yên trong ký ức thân thương. Bài thơ mang đến cho đàn hợp xướng một giai điệu mới, đưa họ chìm đắm vào thế giới của bài thơ về trăng. Như một lời nhắn nhủ, chúng ta cũng như nhận ra thông điệp ý nghĩa qua câu thơ:
'Xin đừng để lòng tham vùi sâu
Chẳng lẽ lê quên lựu, trăng quên đèn.'
4. Cảm nhận bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, mẫu số 4:
Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến cứu nước, đã để lại những tác phẩm triết lý và suy tư về cuộc sống. Ánh trăng, một sáng tác nổi bật, là lời nhắn nhủ về những năm tháng gian khổ trong cuộc đời người lính.
Bài thơ, với sáu khổ thơ năm chữ, kết hợp tự sự và trữ tình, kể về những ký ức giản dị, mộc mạc theo thời gian. Ánh trăng không chỉ là câu chuyện riêng của tác giả mà còn là lời nhắc nhở về cảm xúc ân tình với quá khứ khó nhọc, nhưng tràn ngập tình yêu với thiên nhiên và đất nước.
Mở đầu bài là những dòng chia sẻ về quãng thời gian hồi ức, đơn giản, chân thành:
'Nhỏ như cỏ rừng chung sống
với dòng sông, và bên bờ biển
những kỷ niệm về thời chiến tranh
vầng trăng là người bạn tri kỷ
Thấu hiểu tâm hồn thiên nhiên
tự nhiên như cây cỏ xanh tươi
niềm vui không bao giờ phai
có ánh trăng, tình nghĩa dành riêng.'
Đoạn thơ là hồi ức về tuổi thơ bình dị, nơi cảnh đẹp của đồng quê, dòng sông bát ngát, và những kỷ niệm đầy tình cảm với vầng trăng. Vầng trăng không chỉ là người bạn đồng hành trong những buổi câu cá, nghe chuyện, và thưởng thức bánh nóng dưới ánh trăng, mà còn là nguồn cảm hứng và tri kỷ trong những thời kỳ khó khăn, như chiến tranh. Người lính và vầng trăng gắn bó trong những đêm dài chờ đợi giặc, tạo nên những ký ức khó quên.
Cuộc sống sau chiến tranh mang lại những thay đổi, từ cuộc sống giản dị giữa thiên nhiên trở thành cuộc sống hiện đại, với tòa nhà cao tầng, đèn sáng rực rỡ. Sự thay đổi này không chỉ làm biến đổi môi trường xung quanh mà còn tác động đến tâm trạng và tình cảm của người lính. Họ trở nên nghẹn ngào khi nhìn nhận vầng trăng thân thương từ ngày xưa, nhớ về quãng thời gian thuở ấu thơ và những ngày chiến đấu đầy khó khăn:
'Quay về thành phố hiện đại
điện đèn rực rỡ khắp ngõ ngách
vầng trăng chói qua khe cửa sổ
như lạc lõng giữa dòng người xa lạ'
Cảm nhận về tác phẩm Ánh trăng của Nguyễn Duy
Khoảng cách từ 'tình tri kỷ' đến 'người dưng' dường như ngắn ngủi và mong manh đến đau lòng. Có lẽ vì 'quay về thành phố, điện đèn rực rỡ khắp ngõ ngách', mọi thứ trở nên xa lạ và vầng trăng giữa bối cảnh ồn ào này như một người lạ thoáng qua cuộc đời. Điều đó khiến cho người tri kỷ từng thân thương giờ trở thành 'người dưng qua đường'. Sự thay đổi này khiến cho đau lòng, và câu chuyện có thể tiếp tục nếu không có sự chấp nhận của bản thân:
'Đột ngột đèn sáng lên
phòng buyn-đinh rực rỡ
tung nóc cửa sổ rộn ràng
vầng trăng ngẩn ngơ ngoài kia'
Thành phố chìm trong bóng tối vì mất điện, xa hoa và hào nhoáng đã biến mất. Những tiện ích hàng ngày giờ trở nên xa lạ, khiến người lính cảm thấy khó chịu, vội vã 'mở cửa sổ'. Nhưng:
'... đột ngột vầng trăng tròn
ngửa mặt lên nhìn vầng trăng
có điều gì đó rưng rưng...'
Hai gương mặt, hai trạng thái cảm xúc khác nhau: gương mặt người lính thảng thốt, bất ngờ, rồi rưng rưng xúc động, trong khi gương mặt của trăng im lặng, tĩnh lặng. Có vẻ như hai gương mặt đang tìm kiếm sự đồng điệu trong những ký ức, để 'cái gì đó rưng rưng' là những kỷ niệm chất chứa từ lâu trào dâng theo dòng hồi ức:
'Như là đồng, là bể
như là sông, là rừng'
Sóng đôi màu mỡ, hòa quyện so sánh và điệp cấu trúc, khuấy động khả năng sáng tạo của người đọc, hình dung về đồng ruộng mênh mông, bể cua tôm trăng ngân ngấn, dòng sông trĩu nặng phù sa mỡ mầu tô điểm cho quê hương, và những khu rừng bạt ngàn liên kết với kỳ hoa lửa. Câu thơ ngắn nhưng mang đầy kí ức dẫn dắt về những thời kỳ xưa, làm thức tỉnh tâm hồn sau những ngày lơ lửng.
Vật chất bao trùm, tiện nghi tràn ngập, người lính lãng quên những ngày khó khăn, những trận chiến khốc liệt, nhưng tình đồng đội, tình đồng chí vẫn đọng mãi trong trái tim. Dù bị lãng quên, vầng trăng vẫn thủy chung, bình dị và yên bình:
'Trăng vẫn tròn và hùng vĩ
kể chi người vô tâm
ánh trăng yên bình phản ánh
đủ để làm ta giật mình'
Trăng im lặng, không lên tiếng, không trách móc hay oán trách. Sự yên tĩnh làm nổi bật sự thức tỉnh của lương tri trong người lính. Không tiếng động, không âm thanh, nhưng sự im lặng chính là lực lượng đẩy người lính 'giật mình'. Đây là sự bất ngờ trước hiện thực từ bên ngoài, nhưng trong thơ, 'giật mình' là sự tỉnh bơi của ý thức đối diện với những suy nghĩ sâu xa mà tác giả truyền đạt.
Bằng giọng điệu tâm tình như đang chia sẻ câu chuyện đời mình, Nguyễn Duy khéo léo kết hợp nhiều kỹ thuật thơ, từ tự sự đến trữ tình. Câu thơ lung linh, đan xen giữa niềm vui hân hoan trước tình yêu mới và những suy tư sâu sắc như lời nhắc nhở chân thành mọi người, không chỉ là chính bản thân mình. Mỗi câu thơ đều chứa đựng nghệ thuật hình ảnh và cảm xúc sâu sắc về cuộc sống và tình cảm thời hậu chiến.
'Ánh trăng' là thông điệp của tác giả về những năm tháng chiến đấu gian khổ của người lính, mối liên kết với thiên nhiên và quê hương bình dị, hiền lành. Thông qua đó, gửi gắm cho thế hệ sau tinh thần 'Uống nước nhớ nguồn', lòng biết ơn trung thành với quá khứ.
5. Nhận xét về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, mẫu số 5:
Sau ba năm giải phóng đất nước, những chiến sĩ quay trở lại với nhịp sống bình thường. Trước những tiện nghi hiện đại, trước những lôi cuốn tầm thường, quá khứ trôi vào trong những lo âu và lo lắng. Như một nhà thơ đã viết:
Có những khoảnh khắc trên con đường đời đầy bận rộn
Chúng ta vô tình lướt qua nhau.
Đúng vậy, sự vô tình đó cần sự thức tỉnh, không nên giải thích mà cần làm cho tinh thần tỉnh thức. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, với vần thơ mộc mạc, đậm chất trữ tình, là tiếng lòng chân thành phát ra từ câu chuyện thơ. Bài thơ truyền đạt chủ đề truyền thống 'Uống nước nhớ nguồn' thông qua nét mộc mạc đáng quý!
Bài thơ có cấu trúc câu chuyện từ một quá khứ ngắn, với thể thơ năm chữ mềm mại. Chất trữ tình tạo nền cho lời tâm sự mộc mạc, chân chất; lời đơn thoại là tiếng lòng mở ra trước quá khứ và hiện tại; trước sự có và sự mất, trước khoảnh khắc hôm qua - hôm nay trở thành giọng hát của nhà thơ trước thời gian.
Bắt đầu từ câu chuyện kể với giọng điệu bình lặng, nhà thơ bắt đầu hòa mình vào những cảm xúc của quá khứ riêng tư. Không phải nói, không cần mô tả mà chỉ là lướt qua từng khoảng không, từng thời điểm. Lời kể vẫn điều chỉnh nhanh chóng, nhưng đủ sức khuấy động và làm rung động trái tim người nghe:
Tuổi thơ sống bên cánh đồng
Với dòng sông, bên bể biển
Thời chiến tranh, giữa rừng rậm
Vầng trăng trở thành tri kỷ.
Hai giai đoạn tuyệt vời nhất trong cuộc đời trữ tình. 'Hồi nhỏ' và 'Hồi chiến tranh'. 'Hồi nhỏ sống bên cánh đồng - với dòng sông, bên bể biển', từ 'với' mở ra ba không gian rộng lớn, gần gũi. Không chỉ là sự thân thiết, mà là 'sống bên cạnh' - một sự gắn bó cực kỳ sâu sắc. Vầng trăng trong không gian tuổi thơ hiền lành và trong trận chiến nơi rừng rậm đẹp tuyệt. Bước chuyển lớn xảy ra khi chiến tranh nổ ra. Tại sao vầng trăng trở thành tri kỷ ở thời điểm này? Có thể là vì trong kháng chiến, xa quê hương, xa gia đình, phải đối mặt với gian lao của chiến tranh, vầng trăng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trăng và chiến sĩ chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, đồng lòng đối mặt với khó khăn, tạo nên một mối quan hệ tri kỷ. Trăng trở thành người bạn, đồng hành chặt chẽ bằng tâm hồn. Khi vầng trăng tri kỷ xuất hiện, giọng thơ chậm rãi lại để lại nhiều suy ngẫm:
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ.
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Bài viết Cảm nhận về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
Trăng và chiến sĩ, mối quan hệ đặc biệt! Trăng và họ sống chặt chẽ, thân thiết, đến mức trần trụi, tự nhiên như cây cỏ. Vầng trăng không chỉ là tri kỉ mà còn là tình bạn, lòng trung hiếu vô bờ! Sự trung thành không hạn chế! Ngỡ rằng con người sẽ không bao giờ quên hình ảnh đậm sâu đó. Nhưng khi hoàn cảnh thay đổi, họ trở nên lạc quan và vô tình, trở thành những người 'ăn cháo đá bát'. Vẫn bằng giọng thủ thỉ và tâm tư, ta cảm nhận như tiếng sóng bắt đầu nổi lên trong lòng. Cả quãng đời thơ ấu, sống giữa thiên nhiên, thời kỳ chiến tranh, vầng trăng vẫn là bạn thân. Hồi nhỏ, trăng là đồng hành 'Em đi trăng theo bước/ Như muốn cùng đi chơi'. Trong quân ngũ, 'đầu súng trăng treo', vầng trăng trở thành tri kỉ. Vầng trăng đã trở thành biểu tượng của tình yêu, lòng trung hiếu, và nghĩa tình. Nhưng mà:
Từ khi trở về thành phố
Quen ánh sáng từ gương điện
Vầng trăng vẫn qua ngõ
Như người xa lạ trên đường
Vẫn là giọng điệu bình thản, nhưng nó nghe như là sự trách móc, lòng đau xót. Quá khứ và hiện tại trái ngược nhau một cách nổi bật. Nếu lòng trung hiếu, tình nghĩa là giá trị quý báu của dân tộc, thì thái độ lãnh đạm này không thể bỏ qua! Cuộc sống hối hả hàng ngày, nhịp sống nhanh chóng của đô thị có thể giải quyết được sự thờ ơ, không quan trọng ấy chăng? Như ánh sáng điện rải khắp, chiếu sáng mọi con đường, có thể làm mới đi sự lạc quan, thờ ơ ấy chăng? Không, Nguyễn Duy chân thành như thú tội. Sự chân thành này là đáng quý! Ta nghe thấu nỗi xót xa khi người 'tri kỉ' 'qua ngõ' như 'người xa lạ trên đường'.
Một khoảnh khắc của hiện tại tạo nên một sự giật mình trong con người. Ở đây, tức thì có chút kịch tính. Mặc dù bình thản, nhưng chính nhà thơ tự đặt ra câu hỏi:
Bất ngờ đèn điện tắt
Phòng buồn đêm tối om
Mở cửa sổ vội vã
Vầng trăng bất ngờ tròn.
Những từ như 'bất ngờ', 'vội vã', 'đột ngột' kết hợp với cấu trúc đảo tạo nên biểu cảm tinh tế. Trong khoảnh khắc tối om của 'phòng buồn- đinh tối', vầng trăng xuất hiện một cách thú vị, khiến tác giả ngạc nhiên trước vẻ đẹp kỳ diệu.
Sự cố 'đèn điện tắt' là điều bình thường trong nền văn minh hiện đại, nhưng lại đánh thức con người trở lại với những giá trị cao quý và vĩnh cửu. Mất điện có lẽ đã khiến con người mở cửa sổ để hít thở không khí tự nhiên, không ngờ rằng vầng trăng đang đợi sẵn ở ngoài kia. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến con người tỉnh bơ:
Ngửa mặt nhìn mặt trăng
Có điều gì đó rưng rưng
Như là đồng, là bể
Như là sông, là rừng
Hành động 'Ngửa mặt lên nhìn mặt' đã xuất hiện nhiều lần trong thơ. Lý Bạch đã 'Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương', trong tù, Bác Hồ cũng từng thưởng thức khoảnh khắc ngắm trăng:
Nhân hướng về bầu trời minh nguyệt
Nguyệt và tinh khí hòa quyện cùng sự thi gia
( Ngắm trăng)
Nguyễn Duy sử dụng hai từ 'mặt' một cách tinh tế. Mặt trăng và mặt người đối mặt. Trăng im lặng, không phán xét, nhưng người lính 'rưng rưng' xúc động. Những cảm xúc xót xa, ân hận làm cho giọng thơ không thể giữ được sự bình tĩnh. Khoảnh khắc trước đó, thơ chỉ đề cập đến 'sống với đồng/ Với sông rồi với bể', nhưng giờ đây trở thành 'như là đồng là bể/ Như là sông là rừng'. Giọng kể mang đầy nét hoài niệm. Vầng trăng đánh thức những ký ức, từ tuổi thơ đến những năm chiến tranh dưới bóng rừng. Điều quan trọng là ký ức không mất đi, chỉ tạm lắng xuống, và chỉ một cú nhấp nhỏ có thể đánh thức chúng, tạo nên vẻ đẹp sâu sắc của tâm hồn con người.
Khổ thơ cuối, với sắp xếp đối tượng trong từng cặp câu, thể hiện tối đa ý nghĩa tượng trưng về vầng trăng trong cảm xúc của tác giả:
Vầng trăng tròn vẻ và tỏa sáng
Như làm cho người trở nên vô tình
Ánh trăng im lặng, phăng phắc
Đủ để làm cho ta giật mình.
Vầng trăng 'tròn vẻ và tỏa sáng' biểu tượng cho sự toàn bộ, bao dung, thể hiện tính thuỷ chung và lòng trắc ẩn. Ánh trăng 'im lặng, phăng phắc' không trách móc, yên tâm, đầy nghệ thuật. Một sự yên tâm trong im lặng, đủ để khiến con người 'giật mình'. Toàn bộ bài thơ chứa đựng tình cảm riêng tư của tác giả, nhưng nó đã trở thành câu chuyện của nhiều người. Cái 'giật mình' của nhà thơ cũng là 'giật mình' của ký ức. Chúng ta đã trải qua nhiều lần 'ngất ngưởng' với âm thanh của rừng đâm vào thành phố.
Tôi đột ngột giật mình
Nghe
trên cành cây mềm mại
Góc đường cũ công Lý
Âm thanh của rừng xâm nhập thành phố..
Sự giật mình của nhà thơ, của trí tuệ và tâm hồn con người cuối bài thơ là sự thức tỉnh quý báu, là đỉnh cao của tâm năng và lương tri. Nó là lời nhắc nhở của vầng trăng về quá khứ, về tình nghĩa tri kỷ, làm thức tỉnh mọi người về thái độ sống.
Thể thơ năm chữ, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị trong bài thơ thể hiện tâm hồn chân thật của nhà thơ. Lời kể thơ thanh thản, đôi khi dồn dập sự kiện, có đoạn hoài niệm, đôi khi là độc thoại đầy tâm trạng. Chủ đề truyền thống 'uống nước nhớ nguồn' được thể hiện bằng tiếng lòng chân thành, làm cho 'ánh trăng' trở nên gan lì và động lòng người.
Đọc bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy sau ba năm đất nước thống nhất, ta thấu hiểu hơn về những điều mà nhà thơ quan tâm. Cuộc sống đẹp, ý nghĩa, và có tình với quá khứ, hiện tại là vấn đề luôn mới. Bài thơ đặt ra câu hỏi về cách sống có ý nghĩa và có tình với quá khứ, hiện tại. Tố Hữu đã nói về lời nhắc nhở của núi rừng:
Phố đông nhớ về làng quê
Sáng đèn, còn nhớ trăng giữa rừng chăng?