1. Mẫu số 1
2. Mẫu số 2
3. Mẫu số 3
Đánh giá: Cảm nhận về bài thơ Thu điếu
Đánh giá về 3 bài văn mẫu Cảm nhận về bài Thu điếu
Mẫu số 1: Đánh giá về bài Thu điếu
Cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, với sự suy thoái của chế độ xã hội phong kiến, nền văn hóa Việt Nam trung đại có vẻ sẽ rơi vào bế tắc với một cách tiếp cận văn học đã lỗi thời. Tuy nhiên, lạ thay, trong sự suy thoái đó, xuất hiện một tài năng thơ ca nổi bật như Nguyễn Khuyến. Ông như là một dấu hiệu cảm thán về sức sống của văn hóa trung đại vào giai đoạn cuối cùng của thời kỳ dài hàng chục thế kỷ. Ông để lại một di sản văn chương phong phú, đồ sộ cho quê hương và đất nước. Nhà thơ Nguyễn Khuyến được biết đến là nhà thơ của quê hương và làng cảnh Việt Nam, với những bài thơ tuyệt vời về cảnh làng quê. Trong số đó, bài thơ Thu điếu nổi bật:
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc như hơi gợn nhẹ nhàng
Lá vàng khẽ đưa vèo trước gió
Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu động dậy dưới chân bèo.
Chùm ba bài thơ về mùa thu: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Mỗi bài đều tuyệt vời, đẹp đẽ, thể hiện sự tình quê dạt dào. Riêng bài Thu điếu, Nhà thơ Xuân Diệu xác nhận là điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, mô tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên và tình yêu quê hương tha thiết.
Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng được sử dụng một cách tinh tế. Cảnh thu và bầu trời thu của làng quê Việt Nam hiện lên trong hình dáng và màu sắc tuyệt vời dưới bút tình cảm của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu:
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Nhà thơ hầu như không mắc kẹt với câu cá, mà lại hoàn toàn say mê với bầu không khí của cảnh sắc mùa thu. Ngay từ câu đầu, nhà thơ mô tả ao của mình là ao thu, nước trong veo và lạnh lẽo, không phải là nơi thích hợp cho việc câu cá. Cảm hứng của ông chìm đắm hoàn toàn trong không khí yên bình và trữ tình của mùa thu, một cảnh tượng gần như tuyệt đối yên bình. Nước trong veo, trời xanh ngắt, khách vắng teo - giác quan tinh nhạy của nhà thơ hiểu biết sâu sắc về vẻ đẹp tinh tế của cảnh sắc mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Màu biếc của sóng hòa quyện với sắc vàng của lá, tạo nên bức tranh quê đẹp đẽ và hùng vĩ. Nghệ thuật thực sự tinh tế, lá vàng hòa quyện với sóng biếc, tốc độ vèo của lá bay tương ứng với mức độ nhẹ nhàng của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã ca ngợi chữ 'vèo' trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông một thời nói về việc tìm kiếm câu thơ vừa ý, có lẽ chỉ khi viết bài Cảm thu, tiễn thu, ông mới hài lòng với câu thơ:
Vèo trông lá rụng đầy sân
Chuyển sang câu luận:
Tầng mây lơ lửng trên trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo.
Không gian mở rộng, bức tranh thu được bổ sung chiều cao bằng bầu trời xanh ngắt và những tầng mây nhẹ nhàng trôi theo hơi gió nhẹ. Trong chuỗi thơ về mùa thu, Nguyễn Khuyến nhấn mạnh sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh, 'Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao', Thu ẩm là 'Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt', và Thu điếu là 'Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt'.
Xanh ngắt không chỉ là màu xanh mà còn có chiều sâu. Trời thu không chỉ xanh ngắt mà còn sâu thẳm. Màu xanh ngắt đã làm nổi bật sự sâu sắc, lắng đọng của không gian, cái nhìn lạc quan của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Sau đó, ông đưa mắt nhìn về xung quanh làng quê. Xóm thôn yên bình, tĩnh lặng, con đường uốn quanh co, heo hút, không một bóng người đi lại.
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Khung cảnh êm đềm, hòa mình trong nỗi buồn cô tịch, hiu quạnh. Người câu cá như đắm chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ bề mặt nước, 'ao thu lạnh lẽo' đến 'chiếc thuyền câu nhỏ bé tẻo teo', từ 'sóng biếc' đến 'lá vàng', từ 'tầng mây lơ lửng' đến 'ngõ trúc'... xuất hiện với đường nét, màu sắc, âm thanh mang chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam.
Trong không gian sáng tĩnh đó, tư thế ngồi câu cá của ông như một hình bất động trong thời gian:
Tựa gối buông, cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Tư thế tựa gối buông cần là sự đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Trong tư duy người xưa, câu cá không chỉ là công việc mà còn là thái độ đợi chờ thời cơ, mong đợi người đồng đội xứng đáng để cùng chia sẻ niềm vui. Văn thơ truyền thống thường lấy hình ảnh câu cá để tượng trưng cho việc câu lấy tâm hồn, câu lững thững. Bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng gợi lên khao khát câu thanh, câu vắng, khao khát sự thuần khiết cho tâm hồn của một nhà thơ mang đầy phẩm chất thanh cao.
Âm thanh nhẹ nhàng của cá đớp động tạo ra không khí mơ hồ và xa vắng, đánh thức tỉnh táo tâm trạng.
Bài thơ Câu cá mùa thu là một tác phẩm nổi bật trong việc tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Khuyến. Cảnh mùa thu quê hương được mô tả qua những gam màu tinh tế, nét vẽ xa gần tinh tế và gợi cảm. Âm thanh của lá rơi và tiếng cá đớp động chân bèo - đó là những âm thanh quen thuộc của thuở quê mình, đánh thức những ký ức đẹp về quê hương.
Thơ là cách tinh tế biểu đạt tâm hồn, và Nguyễn Khuyến tỏ ra mê đắm trong tình yêu với thiên nhiên mùa thu, tình yêu với cảnh quê đẹp đậm chất dân dụ. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, và khi đọc những tác phẩm như Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, ta không chỉ trở nên yêu mùa thu, mà còn yêu thêm quê hương, xóm làng, đồng bào, và đất nước. Nguyễn Khuyến, là nhà thơ kiệt xuất, đã ghi dấu ấn vô song trong văn hóa thơ ca cổ điển Việt Nam.
Bên trên là đoạn Cảm nhận về bài Thu điếu tiếp theo. Học sinh chuẩn bị trả lời câu hỏi từ sách giáo trình, Bình bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu) và Phân tích tâm trạng Nguyễn Khuyến qua Thu điếu để học tốt môn Ngữ Văn lớp 11.
Bài mẫu số 2: Cảm nhận về bài Thu điếu
Nguyễn Khuyến, một trong những nhà thơ tài năng, đã để lại dấu ấn to lớn trong văn học trung đại Việt Nam. Thường xuyên trong tác phẩm của mình, ông đưa vào những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và bình dị của làng quê yên bình. Thu điếu là một tác phẩm nổi bật trong chuỗi thơ thu (Thu điếu - Thu vịnh - Thu ẩm) của ông. Bức tranh mùa thu trong bài thơ mang đến cảm giác hẻo lánh, lạnh lẽo và buồn bã, đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã giới thiệu không khí yên bình, địa điểm thân quen của buổi câu cá mùa thu:
'Cảnh ao thu lạnh lẽo, nước trong veo,
Chiếc thuyền câu bé tẹo teo'
Hình ảnh của 'ao thu' chập chùng nằm sâu trong trang thơ của Nguyễn Khuyến trở nên thật sống động. Ngay từ đầu, ta thấy một cái ao thu ở vùng quê Bắc Bộ mở ra, trong veo đến nỗi có thể nhìn thấy đáy hồ. Có lẽ, không phải là mùa thu mới bắt đầu, mà là giữa hoặc cuối mùa, khiến cho cái ao trở nên 'lạnh lẽo', không phải là se lạnh hay lành lạnh. Câu thơ mô tả một khung cảnh với ao thu trong veo, tĩnh lặng nhưng lại mang đến cảm giác lạnh lẽo, quạnh hiu. Trong không gian rộng lớn của ao thu, chiếc thuyền nhỏ xuất hiện, càng làm cho không gian trở nên lạnh lẽo. Với chiếc thuyền câu bé tẹo teo, hình ảnh trở nên nhỏ bé, cô đơn. Cảnh hai câu thơ mở đầu đều chứa vần 'eo', làm tăng thêm sự lạnh lẽo trong không gian câu cá mùa thu, với một chút buồn.
Nếu hai câu đầu giới thiệu cảnh sắc buổi câu cá mùa thu tĩnh lặng, những câu tiếp theo lại làm cho cảnh sắc mùa thu trở nên sống động:
'Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo'
Câu thơ mở đầu mang đến hình ảnh sự chuyển động nhẹ nhàng của vạn vật trong mùa thu. Sự lay động chỉ diễn ra nhẹ nhàng, khee khẽ. Thi sĩ vẽ lên bức tranh với 'sóng biếc' chỉ 'hơi gợn tí', còn 'lá vàng' cũng chỉ 'khẽ đưa vèo'. Sự chuyển động nhẹ nhàng này được thể hiện bằng hai từ 'hơi' và 'khẽ', tôn accent vào sự nhẹ nhàng trong cảnh sắc mùa thu. 'Sóng biếc' làm nổi bật màu xanh biếc trên mặt ao, tạo nên một không gian trải nghiệm thú vị. 'Lá vàng' không chỉ là biểu tượng của sự thay đổi mà còn là điểm nhấn tinh tế trong bức tranh mùa thu của Nguyễn Khuyến.
'Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô'
Nhà thơ tiếp tục mê đắm trong việc mô tả cảnh sắc mùa thu êm đềm, hướng tầm mắt về xa xăm với bầu trời thu:
'Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo'
Hình dung qua câu thơ, người đọc nhìn thấy bầu trời mùa thu cao vút và rộng lớn. Bầu trời cao vời vợi là nơi hiện lên màu xanh ngắt. Dưới ao thu, màu 'biếc' của sóng thu và màu vàng của 'lá' thu được nhấn mạnh, trong khi ở đây, màu xanh ngắt bao la, ngút ngàn trên bầu trời thu. Những 'tầng mây' trôi theo làn gió nhẹ, 'lơ lửng' như đang trôi giữa không trung. Mùa thu làm chậm lại cả không gian đất trời, tạo ra một cảm giác trôi chậm và yên bình. Nhà thơ quay trở lại với cảnh nhỏ dưới đất, nhìn thấy những con ngõ nhỏ ở xa xa. Hình ảnh của 'ngõ trúc' hiện ra với sự hoang vắng. Từ 'quanh co' và 'vắng teo' mô tả một con ngõ ngoằn nghoèo, quanh co và không có bóng người, tạo ra một cảm giác cô đơn, trống rỗng, và buồn.
Đối mặt với khung cảnh tĩnh lặng, lạnh lẽo của mùa thu, nhà thơ quay trở lại với hoạt động câu cá mùa thu:
'Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo'
Trong không khí buồn bã, yên bình của mùa thu, nhà thơ tập trung vào câu cá như một cách để an ủi tâm hồn. Hình ảnh của 'tựa gối' thể hiện sự chăm chú và suy tư lâu dài trước khung cảnh buồn mùa thu. Miên man trong những cảm xúc buồn, cô đơn, nhà thơ chợt ngạc nhiên khi thấy một chú cá nhỏ 'đớp động dưới chân bèo'. Câu thơ là biểu hiện của tâm trạng suy tư, nỗi buồn sâu sắc, một nỗi buồn xa vắng. Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ ẩn mình ở quê hương, và nếu đặt trong bối cảnh sáng tác, người đọc có thể hiểu sâu hơn về tình cảm trong bài thơ, với nỗi buồn của thời kỳ loạn lạc và cô đơn lúc bấy giờ.
Thu điếu là một tác phẩm tuyệt vời của nhà thơ, là một biểu tượng khi nói về mùa thu. Trong bài thơ, cảnh đẹp mùa thu được mô tả hết sức tinh tế, kết hợp với tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Nguyễn Khuyến. Đồng thời, bức tranh thơ cũng phản ánh những nỗi niềm, tình cảm với thời đại và tình yêu quê hương trong tâm hồn thi sĩ.
Bài mẫu số 3: Cảm nhận về bài Thu điếu
'Thu điếu' là sự hiện thân đặc sắc của mùa thu ở vùng quê Bắc Bộ, mà Nguyễn Khuyến đã lựa chọn và thể hiện một cách tài tình và tinh tế.
Khung cảnh bình yên, êm đềm. Ao thu 'lạnh lẽo' với bầu không khí thu tràn ngập. Nước ao thu 'trong veo', sâu đến tận đáy. Chiếc thuyền câu, thuyền nan nhỏ xíu 'bé tẻo teo'. Khu vực đồng chiêm trũng Yên Đổ thuộc huyện Bình Lục, Hà Nam, quê hương cố Tam Nguyên. Mỗi nhà đều sở hữu một cái ao nhỏ trong sân; chiếc thuyền câu nhỏ nhưng đầy hồn quê.
Gió thu thổi nhè nhẹ, làn sóng biếc mặt ao nhẹ nhàng xao động, chỉ 'hơi gợn tí'. Chiếc lá thu, lá vàng, nhẹ nhàng 'khẽ đưa vèo'. Cảnh vật từ sóng biếc đến lá vàng tinh tế, đẹp thơ mộng, tạo nên bức tranh mùa thu tĩnh lặng trên đồng bằng sông Hồng.
Không gian nghệ thuật mở ra vô cùng rộng lớn, chiều cao, chiều xa, chiều dài và chiều rộng. Bầu trời thu 'xanh ngắt', những tầng mây nhẹ nhàng trôi 'lơ lửng', như những khách thơ lang thang du nhàn. Bầu trời thu thoáng đãng, bao la, mênh mông như dải lụa xinh xắn.
Nhìn quanh làng quê, chỉ thấy 'ngõ trúc quanh co'. Không một bóng người đi lại, chỉ còn 'khách vắng teo'. Cảnh quan trở thành biểu tượng của sự cô đơn, tĩnh lặng, tinh tế thể hiện tâm hồn cô đơn của nhà thơ.
Cảnh vật trong 'Thu điếu' được kết hợp với nghệ thuật chấm phá bằng những đường nét tinh tế: bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, quanh co. Mọi chi tiết được làm nổi bật bằng màu sắc: nước trong veo, sóng biếc, lá vàng, trời xanh ngắt. Đây chính là sắc thu của quê hương, của vùng nông thôn Bắc Bộ. Mỗi chi tiết đều đẹp, thân thuộc và đáng yêu, tạo nên bức tranh mơ hồ, êm đềm của mùa thu. Nguyễn Khuyến đã truyền đạt tâm hồn qua từng cảnh và nét thu, làm diễn đạt tình cảm thiết tha, quê hương nồng thắm.
Hai câu kết thể hiện tâm trạng nhàn nhã:
'Nằm gối chờ câu chẳng tha được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo'.
Tư thế 'nằm gối' của Nguyễn Khuyến gợi nhớ đến hình ảnh Lã Vọng câu cá bên bờ sông Vị, kỷ niệm từ hàng ngàn năm trước. Nhưng, cụ Tam Nguyên không phải là người chờ đợi thời, mà là trăn trở trước biến cố thời đại, đau đáu với tình hình xã hội: 'Cáo quan về nhà Nguyễn đã lâu'. 'Cá đâu đớp động dưới chân bèo' là một hình ảnh sống động, lấy động để diễn đạt tĩnh, sử dụng cảnh vật ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng tâm hồn của nhà thơ, đồng thời làm nổi bật bức tranh mùa thu và cuộc câu cá.
Qua 'Thu điếu', ta hiểu được vẻ đẹp tinh tế của tâm hồn Tam Nguyên Yên Đổ, tình yêu với mùa thu kết hợp với tình cảm sâu sắc với quê hương. Một phong cách thanh cao, nhàn nhã và thanh bạch đọng đậm trong từng đoạn thơ.