Trong bài học Ngữ văn lớp 7, chúng ta sẽ khám phá tác phẩm 'Sống chết mặc bay' của tác giả Phạm Duy Tốn.
Hôm nay, Mytour muốn giới thiệu Bài văn mẫu lớp 7: Nhận định về tác phẩm Sống chết mặc bay, rất hữu ích. Mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây.
Nhận định về tác phẩm Sống chết mặc bay - Mẫu 1
Truyện ngắn 'Sống chết mặc bay' được xem như điểm khởi đầu sáng giá của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm đã khắc họa một cách chân thực cuộc sống và quyền lực trong xã hội.
Bắt đầu bằng một cảnh căng thẳng, truyện mô tả cuộc chiến chống lụt trên đê với sự tham gia của hàng trăm nghìn người dân. Sử dụng ngôn từ hùng hồn và sống động, tác giả đã tái hiện một cảnh tượng sống động, khiến người đọc không thể rời mắt khỏi trang sách.
Tác giả tiếp tục mô tả cuộc chiến chống lụt với sự tuyệt vọng và hy vọng của người dân. Sự đối lập giữa sức người và sức nước làm cho người đọc cảm thấy áp lực và xót xa cho những nhân vật trong truyện.
Phạm Duy Tốn đã vẽ nên một hình ảnh tương phản giữa cuộc sống ngoài đê và bên trong đình. Sự châm biếm và mỉa mai trong tác phẩm làm nổi bật sự bất công và sự đối xử không công bằng trong xã hội.
Trước tình hình đe dọa vỡ, các quan phụ mẫu cũng xuống tận đê chỉ đạo, nhưng đáng tiếc, họ không ở bên cạnh dân lao động đang nỗ lực cứu đê mà lại ẩn mình trong đình, nơi vẫn yên bình và trang trọng. Tác giả đã minh họa rất cụ thể hình ảnh của những quan lớn, với bầu không khí sang trọng và hoạt động nhộn nhịp: 'Trên bệ; ngay trung tâm, có một quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho người hầu quỳ dưới đất mà gãi. Một người lính lệ đứng bên, cầm quạt lông, chớp chớp phẩy...'. Khắc họa xung quanh là đủ loại thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng. Quan nhàn nhạt, không quan tâm tới cuộc khó khăn của dân chúng ngoài kia. Sự đối lập giữa đình và đê khiến cho bức tranh xã hội trở nên rõ ràng hơn, tố cáo thái độ không trách nhiệm, vô lương tâm của bọn quan lại.
Đặc biệt, tác giả còn đề cập đến sự say mê cờ bạc của quan phủ và đám nha lại dưới quyền diễn ra ngay trên đê. Trong hoàn cảnh khó khăn, điều này cho thấy sự tàn ác, không trung thực của quyền lực. Những trò chơi cờ bạc đã làm cho quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả nguy hiểm đang rình rập, khiến cho cuộc sống và tài sản của nhân dân trở nên nguy hiểm. Tác giả vừa sử dụng ngôn ngữ mô tả, vừa sử dụng ngôn ngữ cảm xúc để diễn đạt cảnh vỡ đê và sự bi ai, đau lòng của mình đối với những nông dân. Ông muốn nhấn mạnh với độc giả rằng những khổ cực của nhân dân không chỉ là do thiên tai, mà còn là do sự vô trách nhiệm, vô lương tâm của quan lại.
Như vậy, truyện ngắn “Sống chết mặc bay” đã thực hiện mục tiêu chỉ trích gay gắt những quan phủ tàn ác. Đồng thời, nó đã khuấy động lòng nhân ái sâu sắc trước cảnh khốn cùng của nhân dân do thiên tai và sự vô trách nhiệm của quyền lực. Tác phẩm đã gây ra những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả.
Nhận định về tác phẩm Sống chết mặc bay - Mẫu 2
Phạm Duy Tốn là một nhà văn ít sáng tác, nhưng trong các tác phẩm của ông, truyện ngắn “Sống chết mặc bay” nổi bật nhất. Tác phẩm này đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc về cả nội dung và nghệ thuật, giúp người đọc hiểu rõ hơn về tình hình xã hội và quyền lực đương thời.
Tác phẩm được đăng lần đầu trên tạp chí Nam Phong, số 18, năm 1918. Đây là một trong những truyện ngắn đầu tiên của văn xuôi hiện đại Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ. Nhà văn tập trung tái hiện một cách sinh động bức tranh đối lập giữa cuộc sống khổ cực của nhân dân và sự xa hoa, phè phỡn của quan lại. Tên truyện “Sống chết mặc bay” lấy cảm hứng từ thành ngữ “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”, chỉ sự vô trách nhiệm của quan phụ mẫu với nhân dân. Nhà văn mở ra một bức tranh về nội dung của tác phẩm từ chính tên gọi này.
Khi khám phá nội dung, người đọc có thể cảm nhận được nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nhà văn minh họa hai khung cảnh đối lập: cuộc sống của nhân dân hộ đê và sự xa hoa của quan hộ bài trong đình. Truyện mở đầu với cảnh nhân dân hộ đê, nhưng sự việc lại diễn ra hoàn toàn đối lập với điều bình thường ấy.
Khác biệt hoàn toàn với bên ngoài, trong đình, quan phụ mẫu của dân ngồi chơi bài. Khung cảnh tráng lệ, yên bình này làm tôn lên sự vô trách nhiệm của quan phụ mẫu với cuộc sống khốn khó của nhân dân ngoài kia. Sự việc khi đê bị vỡ lại cho thấy mức độ vô trách nhiệm của quan phụ mẫu càng rõ ràng hơn.
Khi đọc truyện, người đọc đã cảm nhận sâu sắc về hoàn cảnh khốn khó của người dân và sự vô trách nhiệm của quan phụ mẫu. “Sống chết mặc bay” thật sự là một tác phẩm đáng chú ý của nhà văn.
Nhận định về tác phẩm Sống chết mặc bay - Mẫu 3
Phạm Duy Tốn là một trong số những người tiên phong trong việc phát triển thể loại truyện ngắn hiện đại. Tác phẩm ngắn “Sống chết mặc bay” đã chỉ trích mạnh mẽ bọn quan phủ 'lòng dã tâm hồn thú' và thể hiện sự đồng cảm trước cảnh 'nghìn đau lòng muôn thảm' của nhân dân do thiên tai.
Ấn tượng ban đầu của độc giả chính là về tiêu đề của tác phẩm: “Sống chết mặc bay” là một cụm từ trong câu tục ngữ dân gian “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” ý muốn chỉ trích những người vô trách nhiệm, ích kỷ, chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mà không để ý đến cuộc sống, thậm chí tính mạng của người khác (trong câu tục ngữ là chỉ thầy thuốc). Qua việc đặt tiêu đề là “Sống chết mặc bay”, nhà văn đã muốn chỉ trích, lên án những người mang quyền lực, tự xưng là “quan phụ mẫu”, “cha mẹ” của dân nhưng lại vô trách nhiệm, thiếu nhân tính, lãnh đạm trước sự sống còn của dân chúng. Không chỉ dừng lại ở đó mà còn thể hiện sự đồng cảm, lòng trắc ẩn cho số phận của nhân dân.
Khi đọc những dòng văn đầu tiên, độc giả như được cuốn hút vào câu chuyện. Tác giả đã tạo ra một tình huống độc đáo.”Gần một giờ đêm, không gian (địa điểm) là khúc đê làng X, thuộc phủ X. Đồng thời mô tả thời tiết lúc này “trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao”, “hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác”. Sử dụng nghệ thuật tăng cấp, tạo ra hình ảnh hung dữ của dòng nước và điều đó đang đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của dân làng. Trong bối cảnh đó, hàng trăm người dân vất vả, cố gắng giữ đê: “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắp, nào cừ… Khung cảnh hỗn loạn với tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi”. Cuối cùng là một nhận xét ngắn gọn nhưng hoàn toàn chính xác: “Tình hình trông thực sự thảm hại”. Nhà văn cũng khéo léo thể hiện thái độ của mình qua: “Than ôi! Sức người khó lòng địch lại được với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Có thể thấy bối cảnh bên ngoài lúc này thực sự rối ren, căng thẳng, con người dường như bất lực hoàn toàn. Đọc những dòng văn của Phạm Duy Tốn, độc giả cảm nhận được không khí cấp bách, gấp gáp như chính họ đang tham gia vào cuộc hộ đê vậy.
Tiếp tục, nhà văn lại mô tả một bối cảnh khác, hoàn toàn trái ngược với bối cảnh bên ngoài đê - bối cảnh trong đình. Đình nằm trên mặt đê, vững chãi và an toàn lắm. “Trong đình, đèn sáng trưng, khói bay nghi ngút. Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”. Quan phủ cùng nhau lại đánh bài tổ tôm: “quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, say mê đánh tổ tôm”. Đau lòng khi một viên quan phụ mẫu lại không bảo vệ con đê cùng dân chúng, mà thay vào đó ngồi chơi bài một cách vô tư? Khi nghe tin con đê sắp vỡ, viên quan phụ mẫu đáng kính đó “cau mặt, gắt: mặc kệ!”. Sau đó, họ vẫn không ngừng chơi bài. Bối cảnh trong đình thực sự náo nhiệt “thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu, mày”; tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm, bốc”; tiếng quan lớn truyền: “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách! Ăn”. Người kia: “Thất văn… Phỗng”, lúc mau, lúc chậm, ung dung êm đềm, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn trọng, xứng đáng với một người quan phúc tinh…”. Những câu văn khiến độc giả cảm thấy tức giận vì thái độ vô trách nhiệm của bậc quan phụ mẫu. Cuối cùng, sức người không thể đấu lại sức thiên nhiên. Con đê bị vỡ, khiến cho nước tràn vào, tạo thành vùng lũ lớn, nhà cửa cuốn trôi, lúa mì bị ngập sâu. Người sống không có nơi trú ngụ, người chết không có nơi an nghỉ. Một tình cảnh đáng thương, đau buồn biết bao. Và “Bấy giờ ai nấy trong đình, đều hoảng loạn sợ hãi. Thốt nhiên một người nông dân, bù đắp đầy bùn đất, quần áo ướt như chuột lột, tất tả chạy vào và nói không ra lời:
- Bẩm… quan lớn… đê đã vỡ rồi!
Quan lớn đỏ mặt rát tai, quay lại la hét rằng:
- Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, lúc này ông cách cổ chúng mày, lúc này ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?... Lính ở đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như thế? Không còn phép tắc gì nữa à?...”. Sự lạnh lùng, không trách nhiệm của viên quan phụ mẫu khiến chúng ta cảm thấy phẫn nộ thay. Tình cảnh đau lòng của dân chúng khi đê vỡ lại khiến chúng ta cảm thấy xót xa thêm.
Như vậy, Phạm Duy Tốn đã rất thành công khi viết truyện ngắn “Sống chết mặc bay”. Tác phẩm đã khơi gợi cho người đọc cái nhìn chân thực về bộ máy chính trị quan lại trong xã hội xưa.
Cảm nhận về tác phẩm Sống chết mặc bay - Mẫu 4
Nhà văn Phạm Duy Tốn có nhiều tác phẩm tiêu biểu về thể loại truyện ngắn. Một trong những tác phẩm rất nổi tiếng của ông là Sống chết mặc bay. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Trước hết, từ nhan đề “Sống chết mặc bay” đã khiến người đọc tò mò. Nhan đề lấy ý từ câu “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Câu tục ngữ muốn chỉ trích những người vô trách nhiệm, chỉ biết lợi ích cá nhân mà không quan tâm đến cuộc sống, thậm chí tính mạng của người khác. Tác giả muốn lên án, phê phán những bọn có quyền lực, tự xưng là “quan phụ mẫu”, “cha mẹ” của dân nhưng lại không chịu trách nhiệm, mất đi nhân tính, thờ ơ trước sự sống còn của dân. Người đọc cảm nhận được sự xót thương, đồng cảm với cuộc sống khốn khổ của người dân trong xã hội xưa.
Nội dung của truyện cũng rất hấp dẫn. Bắt đầu bằng một tình huống độc đáo nhằm thu hút người đọc - một con đê sắp vỡ. Thời gian là vào một giờ đêm, không gian là tại khúc đê làng X, thuộc phủ X. Hình ảnh con đê được mô tả là “trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao”, “hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác”. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tăng cấp để diễn tả sự mạnh mẽ của thiên tai.
Sau đó, nhà văn miêu tả cảnh nhân dân hộ đê đầy căng thẳng: “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắp, nào cừ… Khung cảnh náo loạn với tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi”. Cuối cùng, tác giả nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm” và bộc lộ thái độ: “Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Đọc đến đây, người đọc cảm thấy thương xót, đồng cảm với số phận của người nông dân.
Trái ngược với cảnh ngoài đề, tác giả đã mô tả cảnh trong đình - nơi quan phụ mẫu phụ trách hộ đê, hoàn toàn đối lập với cảnh ngoài đê: “Trong đình, đèn sáng trưng, khói bay nghi ngút. Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”. Tác giả còn mô tả chân dung của quan lớn rất cụ thể, sắc nét: “Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi”. Qua từng câu văn, chúng ta thấy rằng quan phụ mẫu đang rất nhàn hạ, ung dung và không mảy may quan tâm đến tình hình thảm khốc của dân chúng đang diễn ra trên đê.
Cao trào nhất là khi con đê vỡ. Tác giả đã mô tả chi tiết tình hình con người lúc đó: “Nước tràn lênh láng, khắp nơi, nhà cửa trôi còn ruộng lúa má ngập hết. Kẻ sống không có chỗ ở, còn kẻ chết thì không có nơi để chôn”. Tuy nhiên, khi đó, trong đình, quan phụ mẫu lại sung sướng vì thắng được ván bài. Khi có người chạy vào báo đê đã vỡ, quan lớn đỏ mặt rát tai, quay lại la hét rằng: “Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, lúc này ông cách cổ chúng mày, lúc này ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?... Lính ở đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?...”. Những câu văn đã bộc lộ sự vô trách nhiệm của quan phụ mẫu trước dân chúng. Đọc càng sâu, càng cảm thấy tức giận và phẫn nộ trước thái độ thờ ơ của viên quan phụ mẫu. Khi dân chúng sống không bằng chết, quan phụ mẫu lại sung sướng vì thắng được ván bài.
Tóm lại, truyện ngắn “Sống chết mặc bay” là một tác phẩm có giá trị hiện thực đáng kể. Tác phẩm đã giúp người đọc hiểu được một cách chân thực về cách hoạt động của chính quyền quan lại trong xã hội xưa.