Nhận thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù được xác định bởi phạm trù vật chất, ý thức là quá trình phản ánh khách quan thế giới vật chất vào trong ý niệm của con người với sự sáng tạo và biến đổi. Nhận thức có tính chất biện chứng với vật chất.
Xuất xứ
Theo quan điểm của triết học Lenin, trong lịch sử triết học, vấn đề về xuất xứ và bản chất của nhận thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc tranh luận giữa duy vật chủ nghĩa và duy tâm chủ nghĩa. Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, nhận thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và xã hội.
Mặt tự nhiên
Theo quan điểm của triết học Marx-Lenin, ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não con người, là khả năng phản ánh thế giới bên ngoài vào bộ não. Nếu không có sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ não và không có bộ não với tính chất là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có ý thức. Bộ não và sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ não là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Các yếu tố bao gồm:
- Bộ óc:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc con người hiện đại là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu trúc rất phức tạp, bao gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Những tế bào này xây dựng nên nhiều mối liên hệ để thu nhận, xử lý, truyền tải và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong tương tác với thế giới bên ngoài qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.
- Sự phản ánh:
Cũng theo quan điểm của Marx-Lenin, hoạt động ý thức của con người diễn ra dựa trên hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt động của bộ óc thể hiện rõ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại thì cũng không thể có ý thức. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi vật chất. Phản ánh là khả năng giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển dài hạn của thế giới vật chất, tính chất phản ánh của vật chất cũng tiến triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:
- Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất trong giới phi sống, thể hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
- Phản ánh sinh học: Là các phản ánh trong lĩnh vực sinh học trong giới sống, có nhiều hình thức khác nhau phù hợp với mỗi cấp độ phát triển của thế giới sinh vật.
- Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người.
Mặt xã hội.
Để ý thức có thể hình thành, ngoài những nguồn gốc tự nhiên, điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện qua vai trò của lao động, ngôn ngữ và các mối quan hệ xã hội.
“ | Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài người, từ tâm lý động vật thành ý thức | ” |
— Engels |
- Lao động:
Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất của con người. Đó là hoạt động tích cực, sáng tạo, mang mục đích. Lao động giúp con người đứng thẳng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn thịt thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình tiến hóa từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức.
“ | Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người | ” |
— Engels |
Việc sáng chế công cụ lao động mang ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi nó cho thấy con người đã có nhận thức về mục đích của việc biến đổi thế giới. Bản chất của lao động là tác động vào thế giới khách quan, thay đổi thế giới để đáp ứng nhu cầu của con người. Nhờ vào lao động, bộ não con người phát triển và hoàn thiện, nâng cao khả năng tư duy trừu tượng. Lao động từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong một mối liên hệ tất yếu và khách quan, mối liên hệ này không ngừng được củng cố và phát triển đến mức khiến con người nảy sinh nhu cầu 'phải nói chuyện với nhau'. Và từ đó, ngôn ngữ đã xuất hiện.
- Ngôn ngữ:
Theo quan điểm triết học của Marx - Lenin, ngôn ngữ là công cụ để con người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là bề ngoài vật chất của tư duy, là hình thức biểu đạt của ý tưởng. Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển tâm lý và tư duy của con người cũng như xã hội loài người.
Bản chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, về bản chất, ý thức là quá trình phản ánh khách quan vào bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Chỉ ra rằng nội dung của ý thức được xác định bởi thế giới khách quan. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan bởi vì nó tồn tại trong bộ não con người. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan nhưng nó thuộc về mặt chủ quan, là hiện thực chủ quan. Ý thức không có tính chất vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, liên quan đến hoạt động tổng hợp, trừu tượng, có hướng và lựa chọn. Ý thức là sự phản ánh thế giới qua bộ não con người.
- Ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải khi thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người thì tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là quá trình phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động.
“ | Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó | ” |
— Karl Marx |
- Sự phản ánh sáng tạo của ý thức biểu hiện ở việc biến đổi vật chất di chuyển vào bộ não con người thành hình ảnh tinh thần, thành những hình ảnh tinh thần. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của quá trình phản ánh, dựa trên cơ sở của phản ánh, trong phạm vi và theo quy luật của phản ánh.
- Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Dựa trên những gì có sẵn, ý thức có thể sáng tạo ra tri thức mới về các hiện tượng, có thể tưởng tượng ra những thứ không có trong thực tế. Ý thức có thể dự đoán, tiên đoán về tương lai, có thể sáng tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học vô cùng trừu tượng và có tính khái quát cao.
- Ý thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, nhưng đặc biệt là phản ánh trong quá trình con người cải biến thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 khía cạnh: trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, sau đó là mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần và cuối cùng là chuyển đổi mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
- Ý thức là biểu hiện sáng tạo, bởi vì biểu hiện đó, dù là trực tiếp hay gián tiếp, luôn dựa trên các cơ sở vật chất, từ những hoạt động thực tế cụ thể nhất. Sáng tạo của ý thức không đối lập, không loại trừ, mà ngược lại, nó thống nhất với sự phản ánh, dựa trên sự phản ánh.
- Phản ánh và sáng tạo là hai mặt của bản chất của ý thức. Ý thức, trong mọi trường hợp, là sự phản ánh và sự thực tiễn xã hội của con người tạo nên sự phản ánh phức tạp, sáng tạo của tâm trí.
- Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội, do đó, về bản chất nó là có tính xã hội: Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy, mà là một hiện tượng xã hội. Ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh các mối quan hệ xã hội khách quan.
“ | Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến chừng nào con người còn tồn tại | ” |
— Karl Marx và Engels |
Theo Lenin, nếu coi tư tưởng (ý thức) là có tính vật chất, tức là một bước sai lầm khi lẫn lộn chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm.
Cấu trúc của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có cấu trúc rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố khác nhau có mối liên hệ với nhau. Cấu trúc của ý thức có thể được chia theo hai chiều:
- Theo chiều ngang: Bao gồm các thành phần như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí..., trong đó tri thức là yếu tố cơ bản và cốt lõi.
- Theo chiều dọc: Bao gồm các thành phần như tự ý thức, tiềm thức, vô thức, trong đó tự ý thức nằm ở mức độ sâu nhất.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo Lê Nin: Sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi rất hạn chế, chỉ giới hạn trong lĩnh vực nhận thức cơ bản là xác nhận điều gì có trước và điều gì có sau? Ngoài phạm vi đó, không có lý do gì để nghi ngờ rằng sự đối lập đó là tương đối.
Vật chất quyết định ý thức
Vật chất tồn tại trước, ý thức phát sinh sau. Vật chất định hình ý thức, ý thức là cách con người phản ánh thế giới vật chất vào trong não bộ. Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào não người, ý thức sẽ không tồn tại. Ý thức là kết quả của một loại vật chất có tổ chức cao, đó là não bộ của con người. Thế giới vật chất là nguồn gốc bên ngoài của ý thức. Vật chất xác định nội dung của ý thức: ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định. Vật chất xác định bản chất của ý thức. Vật chất quyết định phương thức, cấu trúc của ý thức.
Tác động của ý thức
Tác động của ý thức lên vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Biểu hiện ở đó: ý thức trang bị cho con người sự hiểu biết về thế giới xung quanh, giúp con người xác định mục tiêu và lựa chọn phương pháp cho hoạt động của mình, tạo ra tình cảm, niềm tin, ý chí, thúc đẩy con người nỗ lực hành động để đạt được mục tiêu đã đề ra. Ý thức có thể thúc đẩy hoặc ngăn cản sự phát triển, tiến bộ của các điều kiện vật chất ở mức độ nhất định.
Nếu ý thức phản ánh chính xác hiện thực, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của các điều kiện vật chất. Nếu ý thức phản ánh không chính xác hiện thực, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các điều kiện vật chất. Tuy nhiên, sự kìm hãm này chỉ mang tính tạm thời, bởi vì các sự vật diễn ra theo các luật khách quan của chúng, vì vậy nhất định cần có ý thức tiến bộ, phù hợp, thay thế cho ý thức lạc hậu, không phù hợp.
Trong cuộc tranh luận về quan hệ giữa vật chất và ý thức, Ph.Ăng-ghen đã bảo vệ quan điểm của Các Mác và phê phán rằng trong khi đối đầu với những người theo chủ nghĩa duy tâm, Mác buộc phải nhấn mạnh vào nguyên lý chủ yếu mà họ phủ nhận, tuy nhiên không phải làm giảm vai trò của ý thức và tinh thần. Chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường, thiếu sự biện chứng mới phủ nhận và coi thường tác động của tinh thần.