Đề bài: Nhận xét về Bài ca cao quý của Nguyễn Công Trứ
Bài văn mẫu về Nhận xét Bài ca cao quý của Nguyễn Công Trứ
Bình luận về Bài ca cao quý của Nguyễn Công Trứ
Trong thế giới thơ tự biên, tự diễn đạt như thế này, thường thì các nhà thơ thường ưa dùng những từ ngữ cao ngạo, lên bờ xuống ruộng để thể hiện sự lỗi lạc. Nhưng Nguyễn Công Trứ trong 'Bài ca cao quý' lại hoàn toàn khác biệt. Ông đã biến những trải nghiệm, những sự việc đời thường thành vật liệu để khẳng định bản thân. Trong bài thơ, ông liên tục nhắc lại hai từ 'cao quý'. Cao quý không chỉ còn là một từ mà đã trở thành biểu tượng cho tính cách của một con người không phải là do tình cờ mà trên hàng trăm bài thơ, trong đó có sáu mươi mốt bài ca trù, chỉ có bài này được đặt tên là 'Bài ca cao quý'. Thời đại này và sau này, tất cả đều công nhận Nguyễn Công Trứ: một người đàn ông, một quan lại, một vị tướng, một cụ già cao quý. Cái cao quý đó đã in sâu vào thời đại, chính là ông.
Như hầu hết các nhà thông thái xưa, Nguyễn Công Trứ cũng bắt nguồn từ truyền thống của Khổng Tử, Trình Tử. Ông luôn là một tín đồ kiên trì của triết học Khổng giáo:
Hay nói tám vạn nghìn tư mặc kệ
Không phải quân thần, không thể phụ tử làm người.
Và chắc hẳn anh cũng biết rằng một trong những nguyên tắc cốt lõi của người hiền là cách cư xử hợp lý, tránh xa những điều quá lên cơ, thái quá. Nhưng rồi Nguyễn Công Trứ đã hiểu rằng đã đến lúc vượt qua ranh giới của thế gian, vượt lên trên những điều bình thường của cuộc sống... Có lẽ không một nhà hiền nào có thể giống như Nguyễn Công Trứ: nâng cao tất cả các mặt của cuộc sống hàng ngày của người quý phái, của những kẻ hiếu khách lên tầm cao của một tôn chỉ, một triết lý. Trong văn thơ, ông đề cập đến nhiều loại nợ: nợ tiền, nợ tang, nợ lúng túng, nợ cuộc sống, nợ danh vọng, nợ công danh... Mỗi loại nợ thì phải được xử lý một cách tỉ mỉ, phải được trả đúng hạn, hợp lý... Ông Hi Văn tài bộ từng tự nhận mình như cây cầu:
Khi gió nổi mạnh, cây cứng cựa nhưng không gãy
Dù cuộc đời gặp khó khăn,
Hoặc như cây đa lớn:
Bất kể gió thổi, dùi cũng không gãy,
Âm thanh của vùng đất rộn ràng.
Nếu không có sự khẳng định của tài năng đó, làm sao có thể nghĩ đến những loại nợ đó, và làm thế nào có đủ khả năng để đối phó với mọi thách thức trong cuộc sống? Sự thật là với mỗi khoản nợ. Hi Văn tài bộ cũng dám thách thức với khía cạnh kinh tế, dám đối mặt với mọi thử thách, và tạo dựng được uy tín cho bản thân.
Cái cao quý, cái dũng mãnh của Nguyễn Công Trứ còn ở chỗ: Ông sống một cách thực tế với bản thân, với người khác, và với cuộc sống. Các nhà văn xưa thường viết về những điều tổng quát, tập trung vào vai trò của nhân vật cao quý; còn về bản ngã thì không được đề cập, hoặc là ẩn dấu trong văn học triết học. Riêng thơ văn của Nguyễn Công Trứ lại khác: Ông không che giấu, không né tránh, ông sống cuộc đời như thế nào thì tác phẩm của ông cũng phản ánh lại như vậy. Ví dụ, khi đã trải qua tuổi già, vượt qua tuổi bảy mươi, ông vẫn trẻ trung, không ngừng yêu đời.
Từ đó, có thể nói Nguyễn Công Trứ là một trong những nhà thơ cổ điển xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam, sáng tạo về đề tài tình yêu với sự đa dạng và phong phú, từ những bài thơ như Yêu hoa, Duyên gặp gỡ, đến những tác phẩm như Vịnh chữ tình, Vịnh sầu tinh, không quên cả Tương tư, Bỡn cợt cô đào già... Sự tinh tế và đam mê của ông đối với nghệ thuật thơ và vẻ đẹp của phụ nữ là những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ. Ông tự xưng mình là một dân nhân duyên dáng... Ông thường nói rằng Trong xã hội phồn hoa, ít người hiểu được sự thú vị của cuộc sống. Già đi rồi, ông vẫn không ngừng khuyến khích mọi người: Hãy trân trọng tuổi trẻ, đừng để lãng phí đi mất tuổi thanh xuân, Và nếu không dám mạo hiểm, ai mà thay thế được...
Nguyễn Công Trứ luôn giữ vững phẩm chất đạo đức của mình. Sự kiên định và nhất quán là đặc điểm nổi bật của Nguyễn Công Trứ. Tinh thần kiêng kỵ và tự tin trong thời kỳ rối ren và khó khăn đã trở thành một biểu tượng kiêng kỵ và mạnh mẽ khi ông vượt qua những thử thách của cuộc đời.
Khi đã về hưu ở quê nhà, ông luôn đi cùng với con ngựa vàng vàng đeo trên cổ và đuôi con bò cái màu vàng phủ lên một tấm lụa mo cà rồng, khi được hỏi ông thường trả lời rằng đó là để che giấu sự phiêu lưu của bản thân. Nhiều câu chuyện dân gian kể về việc ông đi theo gót tiên đến đỉnh núi... Ông thường thăm các chùa, từ chùa Cấm Sơn trên núi Đan Nại đến chùa Hương Tích, chùa Thiên Hương trên núi Hồng Lĩnh, ông luôn có một đoàn cô gái theo sau - nhưng thực sự thì ông chỉ đang làm một trò đùa...
Tính cách kiêng kỵ, sự tự tin và phong thái kiêu hãnh của Nguyễn Công Trứ là biểu hiện của một người sống tự tin, có nhận thức rõ về giá trị bản thân và ý thức sâu sắc về nhân cách trong một thời đại đầy biến động:
Có được, có mất... không bị ràng buộc bởi quy tắc nào.
Cho đến nay, mọi người vẫn cho rằng thơ văn của Nguyễn Công Trứ là một hỗn hợp lẫn lộn: thực sự, nó rất thống nhất, rất nhất quán. Sự cao lớn trong tác phẩm của ông là kết quả của một tính cách mạnh mẽ. Một đời sống và sự sáng tạo nghệ thuật. Sự cao lớn đó thuộc về riêng Nguyễn Công Trứ và cũng là sản phẩm của thời đại triều Nguyễn, của một miền quê, của một người con xứ Nghệ. Dù trải qua ba mươi năm làm quan, bị sa thải bảy lần, mất chức, nhưng không bao giờ làm suy giảm bản tính của ông, ngược lại, nhân cách của ông càng được khẳng định. Ngày nay, nhớ về Nguyễn Công Trứ là nhớ về một người đã có công trong việc khai phá, thành lập hai huyện giàu có là Tiền Hải và Kim Sơn (Thái Bình), là nhớ về một nghệ sĩ tài năng, và là nhớ về một nhân cách đã sớm khẳng định bản thân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam - mà bài thơ Bài ca cao lớn là một minh chứng.
"""""- KẾT THÚC """"-
Trên đây là phần Bình luận Bài ca cao lớn tốt nhất, đầy đủ nhất. Tiếp theo, các bạn sẽ chuẩn bị trả lời câu hỏi trong SGK, Bình luận về bài thơ Bài ca cao lớn và cùng với phần Soạn bài Bài ca cao lớn để ôn tập và nắm vững kiến thức trong môn Ngữ văn lớp 11.