Đây là tài liệu hết sức hữu ích, bao gồm 4 mẫu văn được chúng tôi lựa chọn kỹ lưỡng từ các bài văn xuất sắc của học sinh trên toàn quốc. Với tài liệu này, các bạn lớp 11 sẽ có thêm nhiều tư liệu để tham khảo, củng cố kiến thức để đạt được kết quả cao trong các kỳ kiểm tra sắp tới. Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo một số mẫu văn khác như cảm nhận bài thơ Tương Tư, cảm nhận phần đầu của bài thơ Tương Tư. Để biết thêm chi tiết, mời các bạn đọc bài viết dưới đây.
Nhận xét về bốn câu cuối của bài thơ Tương Tư - Mẫu 1
Cùng với một số nhà thơ khác, Nguyễn Bính đã đóng góp vào trường phái thơ “chân quê” trong phong trào thơ Mới 1930 - 1945. Nguyễn Bính chân thành muốn trở lại với cuộc sống của những người dân chân chất, chia sẻ cảm xúc về những mối tình e ấp, ngây thơ của một thời kỳ làng quê yên bình. Thơ của Nguyễn Bính đậm chất ca dao dân gian và màu sắc văn học dân gian, quen thuộc và mới mẻ đồng thời. Bài thơ “Tương Tư” là một minh chứng cho điều đó.
Bài thơ “Tương tư” nói về nỗi nhớ của một chàng trai đối với một người con gái. Chàng trai đến từ thôn Đoài nhớ về một cô gái ở thôn Đông, nhưng không dám thổ lộ cảm xúc của mình một cách rõ ràng, chỉ biết nói rằng thôn Đoài nhớ thôn Đông. Khoảng cách giữa hai nơi làm nổi bật khoảng cách trong trái tim người trai.
Nỗi nhớ của chàng trai dần chuyển thành nỗi đau khổ, vì sự chờ đợi mà không được đáp lại. Sự trách móc nhẹ nhàng về sự xa cách, một bên gần nhưng một bên lại xa xôi, làm cho sự chờ đợi trở nên đau lòng. Chàng trai trách móc bản thân đã thức trắng bao đêm chỉ để mong được gặp người yêu, nhưng càng nhớ, càng trách, người yêu vẫn cách xa. Tình yêu như vậy không hiếm, một bên yêu thương đến tận đáy lòng, trong khi một bên lại mơ màng, không rõ ràng.
Vì vậy, sự trách móc hay nỗi nhớ đều rơi vào hư không, không ai hiểu được, làm cho nỗi nhớ trở nên đau đớn hơn. Sự chia cách ngày càng tăng lên, thời gian trôi qua nhưng mọi thứ dường như không thay đổi. Thời gian lạnh lùng như chính sự lạnh lùng của người yêu, làm cho bên này đơn độc. Liệu bên này có phải chờ đợi mãi mãi cho đến khi trở nên tàn tạ?
Yêu một người nhưng không được đáp lại, nhớ mong nhưng không được gặp gỡ, bởi người yêu cũng không muốn gặp mình, chàng trai chỉ có thể quay về với niềm hy vọng bên trong về một cuộc gặp gỡ lý tưởng:
Nhà em có giàn hoa thơm
Nhà anh có hàng dừa xanh
Thôn em nhớ thôn anh
Dừa thôn em nhớ hoa thơm thôn anh không?
Chàng trai đã dũng cảm tỏ tình gọi người mình yêu là “em”, không cần lời nói phô trương, chỉ muốn thể hiện tình cảm chân thành và mong muốn được ở bên người yêu. Nhưng đáng tiếc, chàng trai vẫn không thoát khỏi nỗi nhớ và hy vọng không được đáp lại, câu hỏi này vẫn không có câu trả lời.
Qua bài thơ “Tương tư”, ta cảm nhận được mảnh hồn thơ giản dị của Nguyễn Bính, mang đậm tình cảm dân dã và lãng mạn. Mặc dù chỉ là tương tư, nhưng bên trong đó là khát khao sâu thẳm về tình yêu và hạnh phúc.
Bài thơ “Tương tư” thể hiện nhiều nét nghệ thuật đặc sắc, đặc biệt là trong việc sử dụng thi pháp và ngôn từ sâu sắc. Nguyễn Bính đã truyền đạt những tình cảm chân thành, đáng yêu và đáng quý. Kết thúc bài thơ, lòng người vẫn tràn đầy tình cảm tốt đẹp.
Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài thơ Tương tư - Mẫu 2
Bài thơ “Tương tư” được lấy từ tập thơ Lỡ bước sang ngang, một trong những tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu của Nguyễn Bính trước cách mạng. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới.
“Tương tư’ có ý nghĩa là nhớ nhung, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ. Trong bài thơ này, nỗi tương tư là sự kết hợp của nhiều cảm xúc khác nhau, với những biến động không đoan trảo.
Mọi sự kiện diễn ra theo cách tự nhiên, chân thực và xen kẽ lẫn nhau một cách tự nhiên. Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái:
Bề ngoài, điều này có vẻ không hợp lý. Trong tình yêu, người chủ động thường là người đàn ông, nhưng ở đây lại là người phụ nữ ngồi yên và chờ đợi để thể hiện tâm trạng của mình, điều này chỉ là cách thức để diễn đạt tình yêu. Người ta thường gọi đó là “trách yêu”.
Người xưa có câu:
“Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”
(Một ngày không gặp mặt dài như ba mùa thu)
Nỗi nhớ của chàng trai và thông qua đó là số phận tình yêu của họ mang đậm dấu vết của cuộc sống quê hương hơn vì nó liên quan chặt chẽ đến phong cảnh và đồng cỏ nơi quê hương.
Trong sự nhớ nhung của chàng trai, hiện lên những chi tiết về các địa danh, cảnh đẹp, cây cỏ thuộc về vùng quê xưa: thôn Đoài, thôn Đông, bến đò, thuyền đò, hoa, bướm, giàn nho, hàng cây cau.
Nhà em có giàn nho xanh
Nhà anh có hàng cây cau nối phòng
Thôn Đoài đến thôn Đông
Cây cau ở thôn Đoài nhớ nhà anh không?
Những chi tiết này không chỉ tạo nên bối cảnh nông thôn cho nhân vật trữ tình biểu hiện tình cảm tương tư của mình một cách tự nhiên và tinh tế mà còn là công cụ, thậm chí là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn đạt tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo và sâu lắng. Chính nhờ vậy, tình và cảnh được kết hợp một cách hài hòa. Trong bài thơ này, sự khác biệt được thể hiện trong cách tạo hình ảnh độc đáo: hình ảnh của chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông không chỉ tạo ra sự mở rộng và tổng quát hóa thành thôn Đoài nhớ thôn Đông mà còn tạo ra hai nỗi nhớ song song và trao đổi, liên quan đến hai đối tượng và hai chủ thể: người nhớ người và làng nhớ làng. Điều này không chỉ là cách diễn đạt vòng vo mà còn tạo ra hai sự nhớ xen kẽ và chuyển đổi, đó là nhờ có người nhớ người mà có làng nhớ làng. Điều này cũng tạo ra phương pháp nhân hóa: “Thôn Đông nhớ...”. Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu thị một quy luật tâm lí. Khi tương tư, thì không gian xung quanh người như cũng trở thành một phần của nỗi nhớ ấy, và vì vậy mà có hai thế giới không gian nhớ nhau. Cảm giác lấp đầy không gian được tạo ra bởi hai làng là một nỗi nhớ sâu sắc.
Thứ hai, nó được thể hiện thông qua việc sử dụng tài liệu ngôn từ từ nông thôn, dân gian như các địa danh “thôn Đoài”, “thôn Đông”, thành ngữ “chín nhớ mười mong”, số từ “một”, “chín”, “mười”, cách tổ chức câu thơ độc đáo: nhà thơ đã sử dụng cách viết thông minh để tạo ra khoảng cách, “thôn Đoài, thôn Đông”, “một người, một người”. Đặc biệt ở câu tiếp theo, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Cách sử dụng ngôn từ này đã tạo ra hương vị nông thôn và thể hiện được giọng điệu truyền miệng phù hợp với việc thể hiện nỗi nhớ tương tư của nhân vật trữ tình.
Sự mong muốn của cặp đôi trong mối tương tư này cũng được thể hiện một cách tinh tế qua nhiều cặp từ trong bài thơ: thôn Đoài – thôn Đông, một người - một người, gió mưa - tương tư, tôi - nàng, bên kia - bên này, hai thôn - một làng, bến - đò, hoa khuê các - bướm giang hồ, nhà anh - nhà em, giàn giầu - hàng cây cau, cây cau ở thôn Đoài - giàu ở thôn Đông.
Các cặp từ trên xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp từ giàu - cây cau. Điều này cho thấy rằng, dưới nỗi tương tư là mong muốn gần gũi, khát khao chân thành, mong muốn gặp gỡ, mong muốn hôn nhân, một trong những nét đặc trưng của quan niệm về tình yêu trong thơ Nguyễn Bính (cũng giống với ca dao). Điều này cũng là một minh chứng thêm cho sự thấm nhuần của truyền thống, bản sắc quê hương trong tâm hồn thơ Nguyễn Bính.
Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài thơ Tương tư - Mẫu 3
Nguyễn Bính là một nhà thơ nổi tiếng của trào lưu Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Trong những giai điệu mới lạ, thơ của Nguyễn Bính vẫn giữ được sự gần gũi với ca dao dân ca, đơn giản, ngây thơ và đậm đà tình cảm. Bài thơ Tương tư được thu vào tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản năm 1940 tại Hà Nội. Tập thơ này đã tạo ra tiếng vang cho tác giả và đánh thức một phong trào yêu thơ Nguyễn Bính trong cộng đồng đọc giả. Bài thơ Tương tư thể hiện tâm trạng đầy chờ đợi của một chàng trai đang yêu với tình yêu đơn phương không được đáp lại. Tình yêu này được đặt trong bối cảnh nông thôn, với hình ảnh một mối tình chân thành giống như trong ca dao và mang hơi thở của đồng quê mộc mạc.
Tâm lý của những người đang yêu luôn mong muốn được gần gũi với nhau. Do đó, một ngày không gặp nhau dài bằng ba mùa thu. Những người yêu nhau mà không gặp được thường sinh ra tương tư. Thường là một người nhớ nhung một người mà không được đáp lại, trường hợp này được gọi trong văn chương là tương tư. Lịch sử tình yêu từ xưa đến nay đã chứng minh bao trái tim tan nát vì mối tình không thành. Chàng trai trong bài thơ này cũng tương tự, nhưng có phần nhẹ nhàng hơn bởi tình yêu chưa được bày tỏ rõ ràng.
Trong thơ Nguyễn Bính, khái niệm 'Cái tôi' xuất hiện như một phần của trào lưu Thơ mới thời điểm đó; tuy nhiên, nó mang một vẻ độc đáo với tính chất thiết tha, chân thành, gần gũi với cuộc sống bình dị của người dân quê. Nó vẫn có thôn Đông, thôn Đoài, chín nhớ mười mong, giàu, cau. Nhưng cũng giống như một cặp trai gái quê mới bắt đầu tìm hiểu nhau bên hàng rào dâm bụt, bên giậu mồng tơi, vừa rõ ràng vừa mơ hồ. Nhân vật tôi đã rõ ràng, trong khi nhân vật nàng vẫn còn mơ hồ, thoáng qua.
Yêu người mà không được đáp lại, nhớ mong mà không gặp được. Một mối tình như vậy sẽ kết thúc như thế nào? Chàng trai quay trở lại với ước mơ kín đáo về một cuộc hôn nhân hạnh phúc, cùng với nỗi lo lắng và niềm đau trong lòng:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giàu ở thôn Đông?
Đến thời điểm này, không cần phải vòng vo, giấu diếm gì nữa, chàng trai không còn tự nhận mình là tôi mà mạnh dạn xưng là anh và gọi nàng là em. Không cần phải mơ hồ về bóng gió xa xôi nữa: Khi nào bến mới gặp đò hay tình yêu tương tư đã thức mấy đêm rồi, thì nên nói thẳng về chuyện hôn nhân:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Hãy tưởng tượng cái cảnh cau giàu kia, nếu được kết thành một bữa tiệc đẹp thì thực sự là một nghi lễ cưới tráng lệ. Nhưng thật trớ trêu khi cau ở nhà em, giàu lại ở nhà anh. Em ở thôn Đông, anh ở thôn Đoài: Thôn Đoài nhớ thôn Đông. Vậy nên: Cau thôn Đoài nhớ giàu ở thôn Đông không? Điều này chỉ làm cho tương tư không vượt qua được nỗi nhớ và nỗi nhớ vẫn chỉ là một chiều. Mặc dù có sự thân mật hơn khi xưng hô là anh và em, nhưng rồi lại quay về nơi ẩn náu cũ:
Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giàu ở thôn Đông không?
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, đó có nghĩa là không thể tiến xa hơn. Dù mon men với việc trầu cau nhưng vẫn không thoát khỏi nỗi buồn vì nhớ nhung người mà không được đáp lại. Vì vậy, để chấm dứt nỗi buồn, câu hỏi được đặt ra một cách dịu dàng: Cau thôn Đoài nhớ giàu ở thôn Đông không? “Cái tôi” hiện đại được phản ánh một cách tự nhiên thông qua cấu trúc quen thuộc của ca dao xưa: thôn Đoài, thôn Đông, từ đó nỗi đau dường như nhẹ nhàng hơn. Vì vậy, nỗi tương tư chỉ là nỗi nhớ mơ hồ hoặc thức trắng đêm, kể cả cảm giác tuyệt vọng kéo dài trong không gian và thời gian chỉ là chuyện bến chưa gặp đò, hoa chưa gặp bướm.
Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài thơ Tương tư - Mẫu 4
'Nắng mưa là bệnh của trời - Tương tư là bệnh của lòng tôi yêu nàng'. Đó là thơ của Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học đã trở thành một tài năng. Hoài Thanh, trong 'Thi nhân Việt Nam', cho biết Nguyễn Bính đã viết gần một nghìn bài thơ khi mới hai mươi tuổi. Nguyễn Bính sử dụng nhiều thể loại thơ, nhưng thành công nhất là thể thơ lục bát. Trong những bài thơ đó, 'ta thấy rằng vườn câu và bụi chuối là môi trường tự nhiên của ta', ta cảm nhận được một giá trị vô song, đó là 'tinh thần truyền thống của dân tộc'.
Các bài thơ tình của Nguyễn Bính mang một dáng vẻ riêng, đẹp như ca dao, đậm chất dân dã... Nhiều đoạn thơ trong bài Tương tư đã đi sâu vào lòng người mãi mãi:
'Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.'
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giàu ở thôn Đông không?'.
Đoạn thơ trên là trích từ bài Tương tư, thuộc tập thơ 'Lỡ bước sang ngang' (1940) của Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu kể về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc và tủi hờn: 'Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?'. Bốn câu cuối thể hiện ước mơ của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một cô gái khác làng chung.
Cấu trúc đối xứng, bốn câu thơ tạo thành hai cặp, gắn liền với nhau như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà anh, em và anh, thôn Đoài và thôn Đông, cau và trầu. Dòng thơ êm đềm như một lời cầu mong, ước ao khao khát. Từ việc gọi 'nàng': 'Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng' đã chuyển thành một tiếng 'em' thân thiết, gần gũi: 'Nhà em có một giàn giầu..'. Sự thân thiết hơn từ 'tôi' - 'nàng' sang 'em' - 'anh', phong cách yêu thương hơn.
Trầu và cau có mối liên kết bền chặt từ hàng ngàn năm trước, vì vậy mới có sự hòa hợp như một kỳ duyên tuyệt vời:
'Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.'
Dấu hiệu 'nhà có một' khiến cho tâm trạng thơ trở nên mạnh mẽ về sự tồn tại của một cặp đôi. Mặc dù 'hai thôn chung lại một làng', không cách xa, nhưng 'giàn giầu' của nhà em và 'hàng cau liên phòng' của nhà anh vẫn nằm ở hai phía không gian. Nhà em và nhà anh chỉ 'có một' chứ chưa hình thành đôi. Chữ 'một' trong hai câu thơ rất ý vị, nó biểu lộ ước mong về hạnh phúc lứa đôi: duyên giầu - cau cũng là duyên lứa đôi bền vững, không thể phai nhạt.
Trong bài thơ 'Tương tư', Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn đạt nỗi buồn tương tư không dứt điểm:
- Sao bên kia không sang bên này?
- Có xa xôi mấy mà tình cách xa?
- Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
- Khi nào mới gặp được đò?
Kết thúc bài thơ, chàng trai tự hỏi trong lòng ước mơ và hy vọng:
'Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giàu không thôn nào?'
Nỗi nhớ không chỉ thuộc về tôi, anh hay em, mà còn 'Thôn Đoài nhớ thôn Đông'. Cảnh vật cũng gợi nhớ mong đợi: 'Cau thôn Đoài nhớ giàu không thôn nào?'. Sự hỏi thăm ẩn dụ, tế nhị, duyên dáng, đậm chất lãng mạn. Anh tự hỏi, cũng như chia sẻ với em. Câu hỏi tu từ, câu chuyện bỏ dở đã thể hiện một tình yêu chân thành, một ước mơ về hạnh phúc ngọt ngào. Ước mơ ấy đong đầy lòng nhân văn.
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Bính đã thể hiện sự độc đáo trong thơ tình của mình. Tác giả đã khéo léo sử dụng các yếu tố văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài - thôn Đông, và cả nhịp điệu lục bát để diễn đạt sự khao khát yêu thương hạnh phúc của đôi lứa. Một tình yêu đẹp, chân chất, vẫn còn mãnh liệt dù nỗi buồn 'Tương tư' hiện hững. Và đoạn kết mang lại hy vọng cho tương lai.