Đề bài
Nhận định về tình thương hiện hữu giữa bóng tối cuộc sống trong truyện ngắn 'Vợ Nhặt' của Kim Lân
Giải đáp chi tiết
... “Đó là những người viết có khả năng đặc biệt để chọn lựa từng khoảnh khắc đặc biệt trong cuộc sống, nơi mà ý nghĩa dày đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc với một vài sự diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi, nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại...”. Mỗi lần đọc và giảng truyện ngắn 'Vợ nhặt', tôi lại nhớ tới ý kiến rất sâu sắc ấy của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu. Quả vậy, cây bút truyện ngắn biệt tài Kim Lân đã chọn được một khoảnh khắc thời gian thật tiêu biểu để dựng nên tác phẩm, ấy là buổi chiều “nhá nhem” không chỉ vẩn lên mùi ẩm thôi, đi vào một đêm đen thỉnh thoảng vẳng ra tiếng hờ khóc tỉ tê, và tiến đến một buổi sớm mai mùa hè “sáng loá”. Câu chuyện như một mảnh vẹn nguyên cuộc sống được xắn ra, vật lên trên trang giây - cuộc sống của những lao động Việt Nam xanh xám, vật vờ, tối đen trong giờ phút lụi tàn của xã hội thực dân phong kiến, chuẩn bị cho Cách mạng tháng tám năm 1945. Viết về xã hội cũ, song nhà văn không miêu tả những bi kịch của kiếp người như những cây bút hiện thực thời kỳ ấy. Chọn thời điểm giáp ranh Cách mạng, cho tác phẩm ra đời năm 1962 trong tập truyện nổi tiếng Con chó xấu xí, tác giả Vợ nhặt cũng không dùng giọng văn ngắn mang âm hưởng sử thi ca ngợi. Ngòi bút Kim Lân hướng vào chuyện duyên kiếp, tình nghĩa của con người, toả hơi ấm từ tình người. Tình người - trước hết là ở những người lao động bé nhỏ, dưới đáy xã hội - đã được nhen nhóm, thắp sáng giữa đêm đen của cuộc sống.
Chao ôi, cuộc sống đen tối ở một khu dân cư nghèo ven thành phố của những người di cư mới thật là kinh khủng! Cái đói, cái chết hiện hình thành những rìu sắc, đường nét rõ ràng, ngay trước mắt con người: con đường vào tối om, bóng người đói với những khuôn mặt xanh xao đi lại dật dờ như những bóng ma - Cái đói, cái chết hiện ra trong “tiếng quạ gào từng hồi thê thiết trên mây cây gạo ngoài bãi chợ”, trong tiếng “hờ khóc tỉ tê” của những gia đình vừa chôn cất người thân. Rồi nó “vẫn giữ mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “mùi đốt đống rác - đốt những vật dụng của người vừa chết - bốc lên khắp nơi”. Trong tiến trình văn học Việt Nam, nhiều nhà thơ đã viết về nạn đói: Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút kể chuyện mùa màng thất bát, cả một vùng rộng lớn ở Thái Bình lúa ngô chết rục, chỉ thấy chồn, cáo chạy nhông, đào bới…Nguyễn Du trong Sở kiến hành tả cảnh một gia đình đói rách đi xin ăn... Và Thạch Lam, và Nguyễn Công Hoan, và Ngô Tất Tố... Song dường như chưa một ai đặc tả, cực tả rõ nét cái nạn đói năm ất Dậu - 1945 - ở một thời gian cụ thể, một không gian đậm đặc như Kim Lân đã làm. Trong truyện Đôi mắt, năm 1948 Nam Cao cũng từng dự cảm về “Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, đọc Vợ nhặt của Kim Lân, chúng ta không chỉ nghe lời kể của nhà văn mà như phải trực tiếp sống giữa cái thời điểm, cái nơi chôn đói nghèo ất Dậu ấy, nhìn rõ cỏ cây, nhà cửa, bóng người, nghe rõ những tiếng quạ kêu, tiếng người khóc, ngửi thấy mùi gây, mùi khét. Chúng ta không chỉ “rùng mình”, còn khiếp sợ, còn xót thương, ngột ngạt, tưởng chừng không sống nổi. Văn chương hay chính đây đích thực cuộc đời đang hiện về? Từng màu sắc, từng âm thanh, từng mùi vị... Một cảnh điêu tàn, rữa nát. Cái chết lan tràn, bao phủ. Đêm đen buông xuống. Đời người, kiếp nhân sinh giống như một đống tro tàn, lạnh ngắt.
Vậy mà giữa bóng tối, giữa khí lạnh của cuộc sống, hai người - anh con trai mệt mỏi với lo lắng hàng ngày và chị con gái tả tơi, gầy sụp, xám xịt - đã tình cờ gặp nhau, cưới nhau, cùng nhau nhen nhóm ngọn lửa... Bắt đầu là Tràng, rồi cô vợ. Họ được cả làng xóm nhìn thấy, cuối cùng được bà mẹ chấp nhận bằng một tấm lòng ngọt ngào, ấm áp. Họ sưởi ấm cho nhau, cùng thắp sáng ngọn lửa sự sống, ngọn lửa tình người. Lần theo từng dòng chữ từng đoạn văn trong Vợ nhặt, chúng ta dễ dàng nhận ra ngòi bút tinh tế của nhà văn khi ông - như có chủ đích - đan xen những âm thanh thê thảm, đau xót và những tiếng nói, giọng cười vui vẻ tuế toá, đan xen những bóng đen, màu xám và những tia sáng, những ánh hồng. Câu chuyện được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà, vào đêm tối, đến sáng hôm sau và cũng theo một trình tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh sáng của niềm vui, hơi ấm của hạnh phúc gia đình, ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi thắp lên, để cuối cùng “sáng loá ” trong ánh nắng một rạng đông mùa hè ba kiếp người đói rách ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật cứu đói, hướng lối Việt Minh, tới những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ bay phấp phới...
1. Nhen lửa
Có thể nói việc hai người Tràng và vợ cùng gặp nhau ban đầu thật đầy phép mầu, theo cách suy nghĩ của Tràng. Nhưng khi họ cùng nhau nói chuyện, nhìn nhau, có vẻ như tình cảm đã bắt đầu nảy lửa. Chỉ cần nghe tiếng 'Muôn ăn cơm trắng với giò...', cô đã đáp lời 'nhà : ơi' và cười nhẹ. Tràng cảm thấy rất vui vẻ. Từ khi sinh ra đến giờ, chưa có cô gái nào cười với hắn một cách thân mật như vậy! Sau đó, anh cũng cười và nhận ra rằng cô cũng không kém phần tình tứ: “Này, hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã”. Ai cũng có thể trêu chọc chàng trai đẩy xe bò mạnh mẽ, lưng to rộng như gấu này, nhưng trong hoàn cảnh nghèo đói này, trước hết là cần miếng ăn, là sự sống. Vì vậy, sau khi biết chàng trai có tiền, và sau khi cùng nhau ăn một bữa no 4 bát bánh đúc, cô nhấc đũa lên miệng và thở dài: Hà, ngon!... “Này, đùa thôi, có muốn về ở với tớ không?”, Tràng nói, ban đầu anh nghĩ đó là một lời đùa, nhưng cô thực sự đồng ý về. Câu chuyện tình yêu của họ được miêu tả bằng một cách hài hước, nhưng hoàn toàn không phải là một câu chuyện trống rỗng. Nó chứa đựng sự nghiêm túc, đặc biệt là khi thời gian trôi qua. Trong thời kỳ nghèo đói, khi mỗi người chỉ cố gắng sống sót, họ đã tìm thấy nhau và cùng nhau trải qua thử thách, một cách dũng cảm và mạo hiểm. Hai người đi bên nhau như một cặp đôi mới cưới. Anh chàng vui vẻ, nụ cười toả sáng trên gương mặt đặc biệt của mình, còn cô gái thì nhúm mày, nón rách che phủ nửa khuôn mặt, nhưng vẫn đầy e ngại. Cả làng trở nên sôi động. Trẻ em hò reo, có người gào lên: “chú chồng vợ hài”, người lớn bàn luận, hỏi han, phán đoán. Những khuôn mặt u tối bỗng trở nên rạng rỡ. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng mời gọi vang lên. Một cái gì đó mới mẻ, sảng khoái thổi vào cuộc sống khó khăn của họ. Mối tình giữa Tràng và vợ là một điều kỳ diệu, nó có sự sáng tỏ, có lửa ấm đấy!
Thật đặc biệt khi hai người Tràng và vợ gặp nhau ban đầu, đó có thể coi như một điều kỳ diệu theo cách suy nghĩ của Tràng. Nhưng khi họ nói chuyện với nhau, nhìn nhau, dường như tình cảm đã nảy lửa. Chỉ cần nghe thấy âm thanh 'Muôn ăn cơm trắng với giò...', cô đã trả lời 'nhà : ơi' và cười nhẹ nhàng. Tràng thực sự rất vui vẻ. Từ khi sinh ra đến giờ, chưa có cô gái nào cười với hắn một cách thân mật như thế! Sau đó, anh cũng cười và nhận ra rằng cô cũng không kém phần tình tứ: “Này, hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã”. Ai cũng có thể trêu chọc chàng trai đẩy xe bò mạnh mẽ, lưng to rộng như gấu này, nhưng trong hoàn cảnh nghèo đói này, trước hết là cần miếng ăn, là sự sống. Vì vậy, sau khi biết chàng trai có tiền, và sau khi cùng nhau ăn một bữa no 4 bát bánh đúc, cô nhấc đũa lên miệng và thở dài: Hà, ngon!... “Này, đùa thôi, có muốn về ở với tớ không?”, Tràng nói, ban đầu anh nghĩ đó là một lời đùa, nhưng cô thực sự đồng ý về. Câu chuyện tình yêu của họ được miêu tả bằng một cách hài hước, nhưng hoàn toàn không phải là một câu chuyện trống rỗng. Nó chứa đựng sự nghiêm túc, đặc biệt là khi thời gian trôi qua. Trong thời kỳ nghèo đói, khi mỗi người chỉ cố gắng sống sót, họ đã tìm thấy nhau và cùng nhau trải qua thử thách, một cách dũng cảm và mạo hiểm. Hai người đi bên nhau như một cặp đôi mới cưới. Anh chàng vui vẻ, nụ cười toả sáng trên gương mặt đặc biệt của mình, còn cô gái thì nhúm mày, nón rách che phủ nửa khuôn mặt, nhưng vẫn đầy e ngại. Cả làng trở nên sôi động. Trẻ em hò reo, có người gào lên: “chú chồng vợ hài”, người lớn bàn luận, hỏi han, phán đoán. Những khuôn mặt u tối bỗng trở nên rạng rỡ. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng mời gọi vang lên. Một cái gì đó mới mẻ, sảng khoái thổi vào cuộc sống khó khăn của họ. Mối tình giữa Tràng và vợ là một điều kỳ diệu, nó có sự sáng tỏ, có lửa ấm đấy!
Khi hai vợ chồng trở về nhà và giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng nói: “Đây là người mới về nhà làm bạn với tôi đây ạ! Chúng tôi có duyên với nhau... Điều này cũng là cái số...”. Dù ngập ngừng, nhưng lời của anh rất chắc chắn. Mỗi từ, mỗi câu không chỉ ấm lòng mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa. “Tôi và người mới về nhà làm bạn... duyên... số...”, những từ này như những ngọn lửa mà Tràng đã thắp sáng để ấm lòng và soi sáng tâm trí già nua của bà cụ Tứ. Đối với Tràng, những ngọn lửa ấy cũng là nguồn động viên. Khi nói về “duyên - số”, anh đang chạm vào điều thiêng liêng nhất trong cuộc đời của hai người. “Duyên” là sự hấp dẫn, kết nối, là tình yêu giữa hai người. “Số” là đời sống, số phận, là việc tạo hóa đưa hai người đến gần nhau, cùng chia sẻ, thương yêu nhau. Từ câu chuyện trên đường bên nhau đến việc đưa cô gái qua ngõ với lời bỡn cợt “vợ mới, vợ miếc”, giờ đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ Tràng, mối quan hệ giữa hai người thực sự được anh coi như là định mệnh, là duyên số do trời sắp đặt, do số phận ràng buộc. Có lẽ khi nói, Tràng chưa suy nghĩ đến những điều sâu xa như vậy, nhưng cách anh “tươi cười' mời mẹ “ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện” rồi nhắc mẹ: “Người mới về nhà chào ạ”, và tiếp tục đưa ra lời giới thiệu cô gái trong tư cách “người mới về nhà” cùng với khẳng định về “duyên số” trong giọng điệu rành rẽ, chắc chắn, làm cho ai nghe đều cảm động, đồng tình. Vì vậy, bà cụ Tứ đã hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra, biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. Bà mẹ nghèo khổ ấy vừa than thở vừa xót thương cho cuộc sống của mình, cho cuộc đời con cái. Bà thấu hiểu, tủi hờn về hoàn cảnh, về trách nhiệm của mẹ trước hạnh phúc của con cái. Rồi bà cảm động nhìn cô gái, như chấp nhận, như biết ơn: Người ta trải qua khó khăn, đói khổ mới nhận lấy con mình, mà con mình mới có vợ... Bà nhắc lại lời con để nói với “nàng dâu mới”: ừ, các con đã có duyên, đã có số với nhau, đó là điều mừng lòng”. Con tin yêu mẹ. Mẹ già cũng tin yêu, tôn trọng nàng dâu con. Mẹ chồng và nàng dâu mới trò chuyện thật cởi mở, thân tình. Bà mẹ dạy con: “Vợ chồng chúng mày phải giúp nhau làm ăn”, nêu ra một tương lai “rồi sẽ được phúc...”. Rồi an ủi, động viên: “Các con ngồi xuống đây cho đỡ mệt, hãy làm ăn hòa thuận để mừng rồi. Các con lấy nhau lúc này, đó là điều đáng mừng...”. Đọng lại trong câu chuyện giữa hai người có tuổi tác khác nhau nhưng giống nhau trong hoàn cảnh sống là chữ “thương”, đó là lòng nhân ái, lòng bao dung của những người mẹ, phụ nữ Việt Nam. Nói lên những lời gan ruột ấy, chắc hẳn bà cụ Tứ đã giảm đi biết bao đau khổ, giải tỏa biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ như nghẹn lại. Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Có lẽ lúc đó đó là nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc nhỏ nhoi, hạnh phúc được chia sẻ giãi bày? Khi thấy con trai đánh diêm để thắp đèn, bà cụ vội vàng lau nước mắt, ngửng lên nói như reo: 'Có đèn đây à? Thắp lên một tí cho sáng...”. Một câu nói của nhân vật, một chi tiết thật đơn giản nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi căn nhà rách rưới của hai mẹ con bà Tứ không có ánh đèn. Buổi tối, bóng tối che phủ khắp nơi. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi, hai mẹ con sống trong cảnh lủi thủi, âm thầm, kiếm sống ban ngày, về nhà vật vã vì mệt mỏi, không cần đèn đóm, không cần chuyện trò. Nay nhà có người mới: con trai có vợ mới, mẹ già có nàng dâu mới, thắp đèn lên để sáng sủa! Ngọn đèn, hay chính là ngọn lửa của tình người đã được nhen từ trong trái tim của mỗi con người? Ở Tràng, đó là ánh sáng từ sự ngẫu nhiên, tình cờ đến một quyết tâm, một khát vọng, ở người vợ nhặt, đó là ánh sáng của duyên số, của cảnh ngộ, ngẫu nhiên nhưng cũng như số trời ràng buộc. Ở bà cụ đó là ánh sáng của tình thương, lòng nhân ái, bao dung. Họ nhắc nhau thắp lửa để... đêm tối “sáng lên một tí”, để căn nhà ấm áp hơn, lòng người có thêm chút lửa để tiếp tục sống, tiếp tục vượt qua giai đoạn khó khăn này - giai đoạn tăm tối đau đớn nhất của đất nước bấy giờ. Có thể nói, nhà văn Kim Lân đã thắp lên trong căn nhà của bà cụ Tứ một ngọn lửa - dù chỉ là của ngọn đèn dầu, một món quà đắt đỏ bây giờ - và cũng đã thắp lên trong lòng của mỗi người đọc một niềm vui, niềm tin, trân trọng trước sức sống và lòng nhân ái của con người - những con người trong tăm tối vẫn nhen nhóm và cố thắp sáng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống để trở thành con người, làm người.
3. Ánh sáng chan hoà
Nếu trong phần trước, các chi tiết, sự việc của câu chuyện diễn ra trong sự xen kẽ giữa bóng tối và ánh sáng, thì ở phần sau, nhà văn tạo ra một không gian nghệ thuật với cả bề mặt và chiều sâu, toát lên vẻ đẹp đầy ánh sáng, cả khung cảnh và nhân vật đều được tưới bằng ánh sáng, tạo ra một sự hoà quyện, chan hòa ánh sáng, ánh sáng tỏa rực như một cơn chuyển động tự nhiên, vì nhà văn miêu tả về buổi sáng hôm sau. Nhưng ánh sáng không phải là ngẫu nhiên. Nó thể hiện sự cảm hứng lạc quan, soi sáng một ngày mới, một trang mới của tâm hồn, cuộc sống của từng nhân vật, từng số phận. Nó cũng là kết quả tuyệt vời của tình thương người.
Một buổi sáng đẹp trời đầy sức sống! Nắng hè tỏa sáng rực rỡ. Nhà cửa, sân vườn được dọn dẹp sạch sẽ gọn gàng. Những chiếc quần áo rách như tổ kiến được phơi nắng. Hai cái chậu nước vẫn đựng đầy, ang nước đầy ăm ắp. Đống rác ở lối đi đã được dọn sạch... Bên ngoài vườn, người mẹ đang lựa cỏ mọc xanh. Vợ Tràng đang quét sàn, tiếng chổi kêu lên trên đất... Mọi thứ như đang thay đổi, mới mẻ. Một nguồn sống mới, hạnh phúc của gia đình rộn ràng, tràn ngập khắp nơi. Anh cảm thấy mình đã trưởng thành, yêu thương gia đình, ý thức về trách nhiệm của mình khiến cho Tràng thay đổi cả về tâm hồn lẫn hành động. Anh cảm thấy mình phải chăm sóc cho vợ con sau này. Anh chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì đó để đóng góp cho việc sửa lại căn nhà. Người phụ nữ - vợ của Tràng cũng đã thay đổi, khác biệt. Cô ấy là một người phụ nữ hiền lành, đúng mực, không còn vẻ ngoài xa hoa như những lần Tràng gặp bên ngoài. Cô là người vợ biết chăm sóc gia đình, xây dựng tổ ấm. Mọi ngóc ngách nhà cửa đều có dấu vết của cô. Nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, quần áo giặt giũ, ang nước đầy, bếp lửa ấm. Nhà văn không mô tả chi tiết mà chỉ qua góc nhìn của Tràng - người chồng - hình ảnh người vợ hiện ra đáng yêu. Bà cụ Tứ nhận ra con trai, nhẹ nhàng bảo nàng dâu: “Anh ấy dậy rồi đây. Con đi làm cơm cho sớm đi”. Vợ Tràng đáp: “Vâng”, và rồi lặng lẽ bước vào bếp. Mọi thứ diễn ra đơn giản nhưng ẩn chứa sự ấm áp và ý nghĩa. Mẹ chồng và nàng dâu như đã sống với nhau từ lâu, hiểu biết, tôn trọng, và yêu thương nhau. Một bức tranh gia đình ổn định, hạnh phúc từng được vẽ nên từ lâu. Người phụ nữ ấy, đối với Tràng không chỉ là 'vợ nhặt' nữa mà thực sự là 'vợ', là 'nàng dâu' của mẹ anh. Chị ấy cũng đã trưởng thành, xứng đáng với danh xưng “người phụ nữ”. Còn bà cụ Tứ - người mẹ nghèo, già yếu - cũng rạng rỡ, tươi vui hơn. Bà bắt đầu dọn dẹp, bảo dưỡng nhà cửa, dạy bảo, động viên con trai. Tâm hồn của người mẹ toả sáng một nguồn ánh sáng mới - nguồn sáng của tình thương, hy vọng.
Sự lấp lánh của tình mẹ, niềm hy vọng từ trái tim của người mẹ, lan tỏa đến cặp đôi trẻ. Vì vậy, dù bữa cơm nghèo nàn với chỉ có một ít rau chuối thái nhỏ và một ít muối ăn kèm với cháo nát - cả gia đình vẫn hạnh phúc thưởng thức. Bà lão đề xuất việc nuôi gà. “Khi có đủ tiền, ta sẽ mua đôi gà. Xoay qua xoay lại chẳng mấy chốc đã có đàn gà để nhìn”. Một cặp gà trong chớp mắt đã trở thành “đàn gà”. Có thể là một vị thần, một nàng tiên đã nhập vào lời bà cụ, hoặc chính bà cụ đang biến thành tiên, vị thần để biến đổi những khổ đau, những thử thách của cuộc sống thành niềm vui, ánh sáng? Nồi cháo đắng chát trên tay bà, bỗng biến thành “một món ngon lắm đấy...”, trở thành “một mẻ chè đây, một mẻ chè xong đây”. Hình ảnh bà cụ “vội vã chạy xuống bếp”, sau đó “tổ chức một bữa ăn với hơi khói bốc lên nghi ngút”, cùng với cử chỉ “khoảy khoắng với chiếc thìa”, múc từng tô cháo và câu nói: “ngon quá nè... ngon quá nè...” được nhà văn diễn tả vừa chân thực vừa lãng mạn như trong một câu chuyện cổ tích, một câu chuyện với hình tượng nhân vật lãng mạn nhưng vẫn hiện đại, chân thực trong những từ ngữ đời thường tinh tế, đặc sắc như: vội vã, tổ chức, nghi ngút, khoảy khoắng, ngon quá nè. Càng về cuối, câu chuyện càng trở nên đơn giản, nhưng vẫn bất ngờ, hấp dẫn và cảm động. Tình yêu của con người, ngọn lửa của sự sống, niềm khao khát hạnh phúc, sự đấu tranh vui sống, niềm hy vọng vào một ngày mai tốt đẹp hơn... ngọn lửa ấy dần dần lan tỏa trong từng chi tiết của câu chuyện, từng câu, từng chữ. Cuối cùng, từ câu chuyện gia đình, từ câu chuyện về nồi cháo đắng nhưng vẫn “ngon quá nè”, ba con người đó cố gắng quên đi những khó khăn trong căn nhà nhỏ để lắng nghe tiếng vang của thế giới bên ngoài. Đó là tiếng trống kêu gọi thuế, cũng là tiếng phá vỡ kho thóc Nhật để chia cho người nghèo đói... Từ lời kể của vợ, Tràng như được đánh thức. Anh nhớ lại cảnh những người nghèo đói đi xô đẩy nhau trên con đường Sập, phía trước có lá cờ đỏ to lớn, lá cờ của Việt Minh, dân đoàn người đi phá kho thóc để chia cho những người đói. Khi vợ và mẹ đứng dậy, Tràng vẫn còn mơ màng về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...”. Câu chuyện về những người nghèo đi phá kho thóc Nhật để chia sẻ cho những người ở đây, ở đó, hình ảnh của lá cờ đỏ lần này lại hiện lên trong tâm trí của Tràng, có lẽ đó là một tia sáng mới? Tia sáng cách mạng ấy, mặc dù ba con người nghèo vẫn chưa nhận thức được rõ ràng nhưng vẫn rực rỡ, chứa đựng một niềm tin vào cuộc sống. Nó là nguồn động viên cho tình người, thúc đẩy con người tiếp tục nỗ lực vươn lên, xua tan bóng tối để bước tiến vào một ngày mai của hy vọng, của hạnh phúc. Chi tiết cuối cùng về “lá cờ đỏ bay phấp phới' như một điệu nhảy lạc quan từ tác phẩm, một âm hưởng tích cực. Mặc dù cuộc đời chưa diễn ra, nhưng ánh sáng của một cuộc sống mới đã rực rỡ trước mắt, đem lại niềm vui cho người đọc và thêm niềm tin vào con người, vào tình người.
Trong bức tranh văn học hiện đại của Việt Nam, có người cảm thấy tiếc cho Vợ Nhặt không xuất hiện cùng Tắt Đèn, Chí Phèo, Bỉ Vỏ, hoặc trong giai đoạn Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chúng ta biết rằng nhà văn Kim Lân bắt đầu viết tác phẩm này vào năm 1940, có lẽ ông đã nảy ra ý tưởng về các nhân vật và cốt truyện sớm hơn. Sau hai biến cố lớn của dân tộc: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Chiến tranh Đế quốc Pháp, qua những trải nghiệm của cuộc sống với thời gian và sự già của trí tuệ sáng tạo, nhà văn mới hoàn thiện và công bố tác phẩm. Vì vậy, tác phẩm có hình thức giống như các tác phẩm hiện thực trước năm 1945, nhưng cảm xúc hoàn toàn khác. Nó không đen tối và u ám đến mức bế tắc. Điều đặc biệt ở ngòi bút của Kim Lân là ông đã chọn được một khoảnh khắc trong cuộc sống của mỗi người, của cả dân tộc mà cuộc sống thúc đẩy con người phải thể hiện phần tâm can nhất, sâu kín nhất chứa đựng sức sống của cả một đời, của cả một dân tộc. Tác phẩm Vợ Nhặt vì thế không chỉ nói về câu chuyện duyên kiếp mà còn là một lời nhắc nhở về cuộc sống. Trong những thời điểm khó khăn nhất của cuộc sống, con người vẫn cố gắng thắp sáng ngọn lửa tình thương, ngọn lửa khao khát hạnh phúc. Sự hiện thực và lãng mạn được xen kẽ trong từng câu, từng đoạn văn, tiếng khóc và tiếng cười xen kẽ, bóng tối và ánh sáng ganh đua với nhau, để cuối cùng mở ra một ngày mới với ánh nắng mặt trời, sắc đỏ của lá cờ Cách mạng. Tình cảm nhân văn – tình yêu và niềm tin vào con người, đặc biệt là với những người lao động - của Vợ Nhặt dường như mang tính mới của thời đại, nổi lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Và điều đặc biệt khác ở ngòi bút của Kim Lân là cách anh viết, những tình huống trớ trêu nhưng đầy sức hút, sự đơn giản nhưng hấp dẫn, là những từ ngữ dân gian nhưng vẫn chứa đựng sự nghệ thuật, là những chi tiết hiện đại nhưng lại như trong một câu chuyện cổ tích. Có thể, ngày mai các từ điển sẽ thêm từ mới “Vợ Nhặt' - một sáng tạo của Kim Lân - vào kho từ vựng văn học hiện thực và nhân đạo của Việt Nam. Và... có lẽ, sau này, con cháu chúng ta sẽ đọc Vợ Nhặt như đọc một câu chuyện cổ tích - câu chuyện về duyên kiếp của những người nghèo có nồi cháo cám mừng ngày cưới, có mẹ già hiền lành như một bà tiên, có lá cờ đỏ báo hiệu cho giấc mơ sắp trở thành hiện thực.
Vũ Dương Quý