Nhận xét về vẻ đẹp riêng của hai đoạn thơ sau:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ Văn 12, tập 1, NXBGDVN, 2012)
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ Văn 12, tập 1, NXBGDVN, 2012)
Dàn ý
1. Mở bài: Giới thiệu chung:
- Quang Dũng là biểu tượng của thơ ca kháng chiến chống Pháp với tinh thần cao đẹp, tình đồng chí mạnh mẽ. “Tây Tiến” là bài thơ nổi tiếng nhất của ông, phản ánh sâu sắc cuộc sống của lính Tây Tiến trong cuộc chiến.
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ nổi tiếng thời kì chống Mỹ. Đất Nước phản ánh lòng yêu nước của dân tộc, biết ơn và ca ngợi những người đã hy sinh cho Tổ quốc.
- Cả hai đoạn thơ tập trung vào vẻ đẹp của tình yêu nước, sự hi sinh của những người con dân Việt Nam trong cuộc chiến, bảo vệ Tổ quốc.
2. Thân bài:
a. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến:
- Thực tế đau thương, khắc nghiệt của chiến trường được thể hiện qua các hình ảnh sinh động trong thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “Áo bào thay chiếu anh về đất”.
- Tinh thần yêu nước, dũng cảm và sự hy sinh của lính Tây Tiến. Họ luôn tự hào về tinh thần quả cảm, sẵn lòng hi sinh tuổi trẻ cho Tổ quốc “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
- Thơ Quang Dũng mang đậm nét bi thương, hùng tráng, sử dụng ngôn ngữ trang trọng, cổ kính, thể hiện rõ tâm trạng của tác giả.
b. Đoạn thơ trong bài Đất nước:
- Nguyễn Khoa Điềm biểu hiện lòng biết ơn, kính trọng với những người đã hy sinh cho Tổ quốc một cách không mong đợi, nhẹ nhàng.
- Thể thơ tự do, sử dụng ngôn ngữ bình dị, gần gũi với người đọc. Thể hiện tâm tư sâu lắng của nhà thơ.
c. Đánh giá:
So sánh để làm rõ vẻ đẹp riêng của hai đoạn thơ:
- Hai đoạn thơ đều ca ngợi tinh thần yêu nước của những người đã hy sinh trong cuộc chiến, bảo vệ đất nước. Họ hy sinh một cách tự nguyện, thanh thản, nhẹ nhàng nhưng không kém phần kiêng nể.
- Đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” phản ánh thực tế gian khổ của chiến trường, biểu hiện sự dũng cảm, quả cảm của lính Tây Tiến, trong khi đó, đoạn thơ trong bài “Đất nước” mang sắc màu tình cảm, lòng biết ơn và ca ngợi với những người đã hy sinh vì Tổ quốc.
3. Kết bài:
- Tổng kết lại giá trị của cả hai đoạn thơ trong việc tôn vinh tinh thần yêu nước và sự hy sinh của những người con dân Việt Nam trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc.
Bài mẫu
Quang Dũng và Nguyễn Khoa Điềm đều là hai nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Nếu như tên tuổi của Quang Dũng gắn liền với "Tây Tiến" thì Nguyễn Khoa Điềm cũng được biết đến nhiều nhất qua "Đất nước". Hai tác phẩm sáng tác trong hai thời kì khác nhau nhưng lại có sự liên quan với nhau. Đặc biệt là hai đoạn trích trên. Nếu đoạn trích trong "Tây Tiến" nói về sự hi sinh của những người lính thời kì kháng chiến chống Pháp thì đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự tiếp nối truyền thống cha anh, Nguyễn Khoa Điềm đã kêu gọi mọi người có trách nhiệm đoàn kết, gắn bó thời kháng Mĩ.
Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài (thơ, văn, nhạc, hoạ), cũng là một người lính, sống một đời lính oanh liệt, hào hùng. Quãng đời ấy đã trở thành cảm hứng đặc sắc trong thơ ông. Bài thơ Tây Tiến viết về người lính, về những chàng trai “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” – người lính Tây Tiến.
Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng địch ở Thượng Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Năm 1948, nhà thơ Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, không bao lâu, ông nhớ đơn vị cũ sáng tác bài thơ này.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt động của đoàn quân, nhớ về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua – Tây Bắc. Vùng đất đó với thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và thơ mộng, trữ tình, vùng đất ấy với những con người tài hoa, duyên dáng và nghĩa tình. Trên nền cảnh ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến. Họ hiện lên thật ấn tượng với phẩm chất hào hùng đáng kính, họ đã hi sinh dọc đường hành quân, hi sinh dọc miền biên giới – họ đã hi sinh vì lí tưởng sống cao đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trân trọng, thể hiện khong khí trang nghiêm, lòng thành kính thiêng liêng của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Những từ ngữ ấy như những nén tâm nhang thắp lên đưa tiễn những người đã ngã xuống. CHính hệ thống từ ngữ ấy kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi (biên cương, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) cũng tạo sắc thá cổ kính, gợi liên tưởng đến sự hi sinh oanh liệt của những anh hùng, dũng tướng sãn sàng chấp nhận cảnh “da ngựa bọc thây” đầy bi tráng trong văn học trung đại.
-Câu thơ đầu đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt (biên cương, viễn xứ) nhưng sức nặng của cả câu lại dồn vào một từ thuần Việt: “mồ”. Mồ cũng là mộ nhưng không phải mộ theo đúng nghĩa. Đó chỉ là những nấm đất được đào vội, chôn mau ngay trên con đường hành quân vội vã để đoàn quân lại tiếp tục lên đường. Đặt trong không gian bao la, mênh mông hoang sơ của miền biên giới Việt – Lào, những nấm mồ ấy gợi lên bao nỗi xót xa.
-Trong câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (chiến trường đi) để nhấn mạnh đích đến của người lính, người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, sứ mênh đất nước rất mỏng manh, chiến trường là đích đến duy nhất, là sự lựa chọn đầy trách nhiệm của cả một thế hệ. Với họ, “đường ra trận mùa này đẹp lắm” và “cuộc đời đẹp nhất trên trận chiến chống quân thù”. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” cho thấy sự dứt khoát, lòng quyết tâm, coi thường gian nguy, coi thường cái chết. Họ sẵn sàng hiến dâng cả đời xanh, tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất cho tổ quốc, hơn thế nữa, tính mạng của họ cũng sẵn sàng hi sinh để làm nên dáng hình đất nước. Họ ra đi với tinh thần của cả thời đại “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Đó là lí tưởng sống cao đẹp, hào hùng.
Viết về người lính và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, nhà thơ Quang Dũng rất chân thực, ông không hề né tránh hiện thực:
Áo bào thay chiếu anh về đất
“Áo bào thay chiếu” – một hình ảnh thực đến xót xa của chiến tranh. Nhưng cái thiếu thốn về vật chất lại được khoả lấp bằng sự hiên ngang, can trường của người lính. Từ Hán Việt và cách nói “Áo bào thay chiếu anh về đất” làm cho cái chết của người lính Tây Tiến trở nên trang trọng hơn rất nhiều, thiêng liêng hơn nhiều. Nhà thơ vẫn gợi lên sjw thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất, ở vùng biên giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã xuống không có một cỗ quan tài, thậm chí không có lấy một tấm chiếu để liệm thân mà khi ngã xuống vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể là tấm áo sờn vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân trọng đồng đội, nhà thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi vĩnh hẳng, bất tử cùng sông núi. Cách nói “về đất” không chỉ là cách nói giảm, nói tránh mà mang ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng. Cái chết không phải là ra đi vào cõi hư vô bất định mà là trở về, trở về với đất Mẹ yêu thương. Đất Mẹ cũng đã mở lòng đón những đứa con đầy trách nhiệm của mình trở về. Họ đã ra đi như thế đấy. Họ đã nằm lại nơi chân đèo, dốc núi nào đó trên con đường hành quân dầy gian khổ, nhọc nhằn, họ đã để lại mình nơi biên cương lạnh lẽo, hoang vắng. Nhưng họ đã ra đi vì lí tưởng, cái chết của họ dù diến ra rất nhiều, dù để lại nhiều xót xa trong lòng người đọc nhưng họ ra đi một cách rất thanh thản. Họ chỉ là “không bước nữa”, là “bỏ quên đời”, là “về đất” thôi chứ không phải là chết. các anh đã ngã xuống, đã “hoá thân cho dáng hình xứ sở” để rồi mỗi thế núi hình sông, mối tên đất tên làng đều có bóng hình các anh. Các anh hi sinh, trở về trong lòng Đất Mẹ để “cho cây đời mãi mãi xanh tươi”, để đem lại cho đất đai, cho quê hương đất nước sự sống bất tận.
Chứng kiến sự ra đi hào hùng của người lính Tây Tiến, “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã mở đầu cho cuộc hành trình trở về Tây Tiến trong kí ức của nhà thơ, cũng là chúng nhân chứng kiến bao tâm tư, tình cảm, bao nỗi nhớ thương, chứng kiến bao chiến công oanh liệt của đoàn binh. Sông Mã cũng đã sẻ chia nỗi xót xa với Tây Tiến khi có những đồng đội hi sinh, là thân nhân đưa tiễn những người lính của đoàn quân ấy trở về với đất. Sự ra đi của các anh là những mất mát, thiếu hụt lớn lao không gì bù đắp được, để lại những tiếc thương, xót xa, hụt hẫng cho những người đồng đội, những người đang sống. Dòng sông mênh mang, chơi vơi trong tiếng gọi tha thiết nhớ thương của nhà thơ ở đầu bài thơ giờ đây nó gầm lên trogn cơn giận dữ kìm nén, trong đau thương uất nghẹn. Nó không hát, không thét, không khóc mà “gầm lên khúc độc hành”. Tiếng thác sông Mã gầm lên vang vọng giữa núi rừng dội lên những âm thanh trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn chiêu hồn liệt sĩ, như tiếng đại bác nổ rung trời giận dữ, nó mang sắc thái của một lời thề cao cả. Đau thương đã biến thành sức mạnh, thành lòng căm thù, thành sự quyết tâm, ý chí sắt đá. Các anh đã quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đặt cái chết của những người lính vô danh giữa một không gian rộng lớn với thiên nhiên hùng vĩ, hình ảnh người lính trở nên hiên ngang, lẫm liệt – ngay cả khi đã hi sinh. Dòng sông Mã thay lời những người đang sống, thay lời quê hương xứ sở cất lên khúc tráng ca tiến biệt người chiến sĩ về nơi vĩnh hằng để hoà cùng khí thiêng sông núi. Đất nước chúng ta đúng là đất nước của “những người chưa bao giờ khuất”.
Cả bài thơ Tây Tiến không có một trận đánh nào được nói tới, không có một tiếng súng nào vang lên mà cái chết vẫn hiện hình rõ nét, vẫn hiện lên một cách chân thực. Đó chính là cái nhìn mới về sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh. Rất nhiều người lính đã hi sinh dọc đường hành quân, trên đường ra mặt trận. Họ hi sinh vì điều kiện sống, chiến đấu quá gian khổ, thiếu thốn: thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu thuốc, lại sống ở những nơi rừng thiêng nước độc…
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, cmar xúc nồng nàn, mãnh liệt về nhân dân, đất nước – thể hiện sâu sắc tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, một chiến trường nóng của thời chống Mĩ. Mục đích của tác phẩm: thức tỉnh tuổi trẻ đô thị miền Nam và tuổi trẻ cả nước về bộ mặt xâm lược và tội ác của đế quốc Mĩ để hướng về nhân dân, đất nước cùng đứng dậy đấu tranh hoà nhịp với cuộc đấu tranh của toàn dân.
Đoạn trích Đất Nước nằm ở phần đầu chương V của Mặt đường khát vọng nói về những cảm nhận, khám phá, suy tư mới mẻ của tác giả Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước (trên nhiều bình diện: bề dày lịch sử, chiều rộng của địa lí, chiều sâu văn hoá, phong tục tập quán, truyền thống), từ đó tác giả khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân – nhân dân bình dị vô danh đã làm nên Đất Nước. Từ những nhận thức sâu sắc ấy, nhà thơ nhắc nhở mỗi người đang có mặt trong đất nước Việt Nam thiêng liêng quý báu của chúng ta rằng: Lịch sử đất nước là những thế hệ người anh hùng thầm lặng dựng xây và bảo vệ:
Có biết bao người con gái con trai
…
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc về cả bề dày lịch sử bốn nghìn năm. Cha ông ta đã làm nên lịch sử oanh liệt bằng sự tiếp nối không ngừng nghỉ. Họ là biết bao người con gái con trai cần cù làm lụng chăm lo cho cuộc sống, vun vén cho gia đình khi đất nước hoà bình, nhưng họ đã sẵn sàng dâng hiến tuổi xanh, hiến dâng thân mình khi tổ quốc kêu gọi. Họ đã làm một cuộc chạy tiếp sức đầy nhọc nhằn, gian khó để dựng xây và bảo vệ, vun đắp và gìn giữ Đất Nước cho chúng ta hôm nay. Nhà thơ khéo léo nhấn mạnh vào vai trò, sức mạnh của lớp người trẻ tuổi (“giống ta lứa tuổi”) để thức tỉnh tuổi trẻ đất nước tự nguyện xả thân cứu nước, giữ nước. Đất Nước này được làm nên từ máu xương, từ sự hi sinh giản dị, bình tâm của những con người đã “ra đi không tiếc đời mình”.
Viết về lịch sử Đất Nước, tác giả không nhắc về những sự kiện lịch sử trọng đại, những người anh hùng nổi tiếng lưu danh sử sách mà ông viết về những người anh hùng vô danh mà vĩ đại vô cùng. Ngòi bút của ông thật tinh tế, khéo léo gợi những suy tư sâu xa trong lòng người đọc. Khi ông viết về công lao, vai trò to lớn của nhân dân đới với lịch sử Đất Nước thì câu thơ kéo ra rất dài. Nhưng khi viết về sự hi sinh thì câu thơ co ngắn lại: “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”. Những từ ngữ “giản dị”, “bình tâm” và những từ đối lập ‘sống – chết” cho thấy nhân dân dã tự nguyện hi sinh cho sự sống bất tận của Đất Nước. Các thế hệ nhân dân đã hi sinh nhẹ nhàng, thanh thản. Họ thật cao cả, vĩ đại, phi thường – “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Nhà thơ đã đặt những cái vĩnh hằng bên cạnh cái giản dị, vô danh để khẳng định, ngợi ca nhân dân, vai trò của nhân dân đối với Đất Nước. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện niềm kính trọng, biết ơn đối với Nhân Dân.
Như vậy, qua phân tích ta thấy được cả hai đoạn thơ đều nói tới sự hi sinh thầm lặng của những người anh hùng vô danh để “làm nên Đất Nước muôn đời”. Hai đoạn thơ đều được viết ra bởi sự yêu thương, trân trọng, biết ơn của các tác giả - những người đang sống trong những giai đoạn lịch sử gian khổ mà hào hùng. Tuy nhiên, mỗi đoạn thơ cũng có nét đặc sắc, hấp dẫn riêng. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết trong những năm đầu của thời kì kháng chiến chống Pháp với nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội, bằng kí ức về một thời oanh liệt của người trong cuộc. Đoạn thơ được viết bằng cảm xúc mãnh liệt chân thành, sự kết hợp bút pháp tả thực và lãng mạn. Đoạn thơ trong bài Đất Nước được viết trong năm cuối của thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong cuộc kháng chiến, chúng ta có nhiều thắng lợi vẻ vang nhưng vận nước vẫn rất mong manh. Lúc này cần sự đóng góp của tất cả mọi lực lượng. Bài thơ, đoạn thơ này nhằm thức tỉnh tuổi trẻ về trách nhiệm đối với Đất Nước – cũng là một cách kêu gọi tinh thần đấu tranh của tuổi trẻ. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh. Đoạn thơ trong Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh.
Qua hai đoạn thơ trong hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, các tác giả đã đem đến những nhận thức sâu sắc về vai trò của những người anh hùng vô danh. Họ đã “hoá thân cho dáng hình xứ sở - Làm nên Đất Nước muôn đời”. Đó là những con người thầm lặng, giản dị mà cao cả, đáng kính vô cùng. Hai bài thơ cùng viết về đề tài những con người kháng chiến, nhưng ra đời trong hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên đã có những nét tương đồng và sự khác biệt rất sâu sắc. Hai đoạn thơ trên đã đem đến cho chúng ta những cảm xúc sâu lắng về sự khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh, về lí tưởng cao đẹp của những người chiến sĩ, về sự hi sinh thầm lặng của các thế hệ nhân dân để ta thêm yêu cuộc sống, yêu đất nước của chúng ta ngày hôm nay.