Cá ngựa | |
---|---|
Khoảng thời gian tồn tại: Lower Miocene đến nay – 23–0 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
| |
Hippocampus hippocampus | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
Lớp: | Actinopterygii |
Bộ: | Syngnathiformes |
Họ: | Syngnathidae |
Phân họ: | Hippocampinae |
Chi: | Hippocampus Rafinesque, 1810 |
Loài điển hình | |
Hippocampus heptagonus Rafinesque, 1810 | |
Các đồng nghĩa | |
|
Nhím biển (tên khoa học Hippocampus), còn gọi là hải mã, là một chi động vật sống dưới đại dương, phân bố chủ yếu ở các vùng biển nhiệt đới. Chúng có thể dài trung bình khoảng 16 cm, và một số loài có thể đạt đến 35 cm. Ở khu vực Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam, nhím biển được coi là một loại dược liệu quý.
Nhím biển thuộc chi Hippocampus trong họ Syngnathidae, bao gồm cả cá chìa vôi. Chúng thường sống ở những vùng nước nhiệt đới và ôn đới trên toàn thế giới.
Nhím biển và cá chìa vôi là hai nhóm cá độc đáo, trong đó con đực có khả năng 'mang thai' và sinh con.
Nhím biển thực chất là một loại cá. Chúng có vây ngực ở phần trên gần mang và vây lưng ở phần dưới cơ thể. Một số loài nhím biển có phần thân thể trong suốt, làm cho chúng khó nhìn thấy trong các bức ảnh.
Sự giảm sút số lượng cá ngựa đã đạt mức báo động do việc khai thác gia tăng. Cá ngựa thường được sử dụng trong các bài thuốc truyền thống của Trung Quốc, với khoảng 20 triệu con bị đánh bắt mỗi năm cho mục đích này. Từ ngày 15/05/2004, hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu cá ngựa được kiểm soát bởi tổ chức CITES.
Cá ngựa chủ yếu ăn các loài cá nhỏ và giáp xác như tôm, chúng sử dụng miệng để hút con mồi vào.
Quá trình sinh sản
Cá ngựa có phương thức sinh sản rất đặc biệt: con đực 'mang thai'. Theo nghiên cứu, cá cái sẽ đặt trứng vào túi ấp của cá đực, làm cho cá đực có vẻ như đang mang thai. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng cá đực thực chất không đưa tinh trùng trực tiếp vào túi ấp mà phát tán xung quanh. Thời gian mang thai kéo dài từ 2 đến 3 tuần.
Thời điểm trứng cá ngựa nở phụ thuộc vào từng cá thể. Một số trứng phát triển cùng với các sinh vật phù du biển. Đôi khi, cá ngựa đực có thể ăn một số con non trước khi chúng được thả tự do. Một số loài cá ngựa khác ngay lập tức bắt đầu cuộc sống dưới đáy biển.
Thông thường, cá ngựa sống theo cặp, nhưng có một số loài lại sống thành bầy. Khi sống thành cặp, cá ngựa thường giao phối vào sáng sớm hoặc chập tối để củng cố mối quan hệ. Phần còn lại của thời gian, chúng tìm kiếm thức ăn.
Nuôi làm thú cưng
Nhiều người chọn nuôi cá ngựa làm thú cưng. Chúng chỉ ăn thức ăn tươi như tôm và thường nằm úp dưới đáy bể, hành động này làm hệ miễn dịch của chúng yếu hơn, dẫn đến dễ mắc bệnh.
Gần đây, cá ngựa nuôi sinh sản ngày càng phổ biến. Trong môi trường nuôi nhốt, chúng khỏe mạnh hơn và ít bệnh tật hơn. Chúng được cho ăn tôm cám và không bị sốc hay căng thẳng khi chuyển từ biển vào bể cá. Mặc dù cá ngựa nuôi từ nhỏ có giá cao hơn, nhưng chúng thích nghi và sống tốt hơn so với những con cá ngựa ngoài tự nhiên.
Cá ngựa cần được nuôi trong các bể cá phù hợp. Mặc dù ăn khá chậm, nhưng khi được nuôi chung trong bể, chúng có thể trở nên hung dữ và cạnh tranh để giành thức ăn. Do đó, người chăm sóc cần phải đảm bảo lượng thức ăn phù hợp cho từng con.
Cá ngựa có thể sống hòa bình với một số loại tôm và động vật đáy, đôi khi cũng có thể chung sống với cá bống. Tuy nhiên, một số loài như lươn, bạch tuộc, hay mực ống có thể gây nguy hiểm cho cá ngựa.
Các loại cá ngựa nước ngọt thường được bán trên thị trường thực ra gần giống như cá chìa vôi ở sông. Tuy nhiên, cá ngựa nước ngọt không phải là cá ngựa thực thụ. Những loài cá ngựa mới phát hiện gần đây thường sống trong nước lợ.
Lợi ích của cá ngựa đối với sức khỏe
Nghiên cứu cho thấy cá ngựa chứa enzym sinh tổng hợp prostaglandin, một chất có vai trò quan trọng trong việc điều hòa thần kinh, hormone và hệ miễn dịch. Prostaglandin và tiền chất của nó có thể kích thích sự tiết hormone oxytocin và cải thiện khả năng cương dương bằng cách tác động lên vùng điều khiển tình dục của tuyến yên trong não.
Thành phần dinh dưỡng: Cá ngựa chứa một lượng cao docosahexaenoic acid (DHA), một chất thiết yếu trong việc sản xuất tinh trùng và có liên quan mật thiết đến khả năng sinh sản. Các hoạt chất estrogen và androgen trong cá ngựa giúp cải thiện sức khỏe, tăng cường sự dẻo dai, và mang lại sự hài lòng cho cả hai giới. Bên cạnh đó, peptid trong cá ngựa có tác dụng kháng khuẩn, nâng cao khả năng tiêu diệt tế bào ngoại lai, và hàm lượng protein cao giúp chống oxy hóa, làm chậm quá trình lão hóa da.
Theo y học cổ truyền, cá ngựa có vị ngọt, mặn, tính ấm, không độc, và tác động chủ yếu lên can thận. Nó giúp ôn thận, tăng cường sinh lý, điều hòa khí huyết. Cá ngựa thường được dùng để điều trị các vấn đề như liệt dương, di tinh, suy nhược thần kinh, yếu sinh lý ở nam giới, và hỗ trợ sản phụ trong trường hợp khó sinh.
Cách sử dụng
Một phương pháp phổ biến là ngâm một cặp cá ngựa trong rượu và uống hàng ngày. Phương pháp chế biến đơn giản này giúp tận dụng tối đa các lợi ích sức khỏe của cá ngựa.
Cá ngựa không chỉ là một giải pháp tuyệt vời cho các vấn đề sinh lý của nam giới mà còn mang lại nhiều lợi ích khác cho sức khỏe toàn diện.
Khả năng thích nghi
Cá ngựa có đôi mắt di động cao, cho phép quan sát kẻ thù và con mồi mà không cần phải di chuyển. Tương tự như loài rồng biển, cá ngựa có một cái vòi dài để hút mồi. Vây nhỏ của cá ngựa giúp nó dễ dàng luồn lách qua các đám tảo dày đặc. Hơn nữa, cái đuôi dài của nó có khả năng quấn quanh tảo biển để giữ cho cơ thể không bị cuốn trôi theo dòng nước.
Phân loại
- Họ Syngnathidae
- Phân họ Hippocampinae
- Chi Hippocampus
- H. abdominalis Lesson, 1827 (New Zealand và các vùng nam, đông Úc)
- H. alatus Kuiter, 2001
- H. algiricus Kaup, 1856
- H. angustus Günther, 1870
- H. barbouri Jordan & Richardson, 1908
- H. bargibanti Whitley, 1970 (Tây Thái Bình Dương: Indonesia, Philippines, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon, vv...)
- H. biocellatus Kuiter, 2001
- H. borboniensis Duméril, 1870
- H. breviceps Peters, 1869 (Nam và đông Úc)
- H. camelopardalis Bianconi, 1854
- H. capensis Boulenger, 1900
- H. colemani Kuiter, 2003
- H. comes Cantor, 1850: Cá ngựa vằn
- H. coronatus Temminck & Schlegel, 1850
- H. denise Lourie & Randall, 2003
- H. erectus Perry, 1810 (Bờ biển đông châu Mỹ, từ Nova Scotia đến Uruguay)
- H. fisheri Jordan & Evermann, 1903: Cá ngựa Fisher
- H. fuscus Rüppell, 1838 (Ấn Độ Dương): Cá ngựa nhỏ
- H. grandiceps Kuiter, 2001
- H. guttulatus Cuvier, 1829
- H. hendriki Kuiter, 2001
- H. hippocampus (Linnaeus, 1758) (Địa Trung Hải và Đại Tây Dương)
- H. histrix Kaup, 1856: Cá ngựa gai dài (Ấn Độ Dương, Vịnh Ba Tư, Biển Đỏ, và Viễn Đông)
- H. ingens Girard, 1858 (Bờ biển Thái Bình Dương của Bắc, Trung và Nam Mỹ)
- H. jayakari Boulenger, 1900
- H. jugumus Kuiter, 2001
- H. kelloggi Jordan & Snyder, 1901
- H. kuda Bleeker, 1852: Cá ngựa đen
- H. lichtensteinii Kaup, 1856
- H. minotaur Gomon, 1997
- H. mohnikei Bleeker, 1854
- H. montebelloensis Kuiter, 2001
- H. multispinus Kuiter, 2001
- H. pontohi Lourie & Kuiter, 2008
- H. procerus Kuiter, 2001
- H. queenslandicus Horne, 2001
- H. reidi Ginsburg, 1933 (Các rạn san hô Vùng Caribe)
- H. satomiae Lourie và Kuiter, 2008
- H. semispinosus Kuiter, 2001
- H. severnsi Lourie và Kuiter, 2008
- H. sindonis Jordan & Snyder, 1901
- H. spinosissimus Weber, 1913
- H. subelongatus Castelnau, 1873
- H. trimaculatus Leach, 1814
- H. whitei Bleeker, 1855 (Đông Australia)
- H. zebra Whitley, 1964
- H. zosterae Jordan & Gilbert, 1882 (Vịnh Mexico và vùng biển Caribbe)
- Chi Hippocampus