... Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc,
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường.
Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc
Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương...
(Đọc Kiều - Chế Lan Viên)
Những câu thơ của Chế Lan Viên đã đánh thức nỗi nhớ trong lòng về cuộc đời đầy bi kịch của Thúy Kiều, và làm cho ta biết ơn lòng nhân ái rộng lớn của Nguyễn Du, một nhà thơ vĩ đại của dân tộc.
Đoạn thơ 'Buồn trông cửa bể chiều hôm...' đầy nước mắt vẫn còn làm xúc động lòng người 'Kiều là biểu tượng của dân tộc - tài sắc sao mà nhiều là một người trải qua nhiều nỗi đau'.
Tại lầu Ngưng Bích, Kiều là một tác phẩm vĩ đại của Nguyễn Du, nhà thơ lừng danh dân tộc. Câu chuyện về Kiều là một bi kịch tâm trí của dân tộc, được mô tả một cách tinh tế bằng ngôn từ nghệ thuật của nhà thơ. Những dòng thơ buồn của Kiều đã khơi dậy nhiều cảm xúc đau thương trong lòng người đọc về những số phận 'bạc mệnh' ngày xưa...
Sau khi trải qua nhiều khổ đau, bị Mã Giám Sinh lừa gạt, bị Tú Bà làm nhục, Kiều cảm thấy mệt mỏi và tự tử bằng dao. Nhưng cô được cứu sống. Tú Bà lại bắt cô sống ở lầu Ngưng Bích.
Là một người con gái lạc lõng ở đất khách quê người, lo sợ và cô đơn là điều tất yếu. Những ngày gặp phải bão táp và nguy hiểm đã qua, tương lai trước mắt không rõ ràng và đầy rủi ro. Kiều cảm thấy cô đơn và mệt mỏi. Cô nhớ cha mẹ già yếu, không có ai chăm sóc, 'không ai giơ quạt ấm áp cho ai...'. Cô nhớ Kim, người bạn tưởng chừng sẽ làm nơi nương tựa cho cô.
Sau những nỗi nhớ là đau buồn và tuyệt vọng, sự hoang mang và sợ hãi không ngừng... Nỗi đau buồn như làm tan chảy tâm hồn, làm nén chặt hồn Kiều. Đoạn thơ 8 câu đầy cảm xúc. Người viết đã sử dụng cảnh thiên nhiên làm bối cảnh để thể hiện tâm trạng nội tâm của nhân vật. Mọi thứ quen thuộc ở vườn Thúy đều trở nên xa lạ và trống rỗng: 'cửa bể chiều hôm', con thuyền và 'cánh buồm xa xa', 'ngọn nước mới sa', một bông hoa 'trôi man mác', 'cỏ dại dại', màu xanh của mặt đất, bóng cây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm... Chính những hình ảnh, âm thanh đó đã góp phần mô tả tâm trạng của Kiều; một bi kịch đang làm tan nát trái tim nàng suốt ngày đêm.
Mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ đều đánh thức một chuỗi tưởng tượng đau xót về số phận 'bạc mệnh' của người con gái đầu lòng của nước Việt. Mỗi hình ảnh âm thầm đó mang ý nghĩa tượng trưng cho nỗi lo sợ và hoang mang của Kiều. 'Cánh buồm xa xa' trên 'cửa bể chiều hôm' như một hành trình mơ hồ, không chắc chắn:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Cánh 'hoa trôi man mác' lơ lửng giữa 'ngọn nước mới sa' rộng lớn, cũng là biểu hiện cho nỗi lo lắng về số phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời không chắc chắn:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trong khung cảnh xanh xao của 'nội cỏ rầu rầu', nỗi buồn tan vào không khí như tấm gương phản chiếu của cuộc đời tan úa của Kiều:
Buồn nhìn 'nội cỏ rầu rầu',
Chân mây mặt đất phủ màu xanh xao.
Biển trời dữ dội, tiếng sóng ầm ầm vỗ, 'kêu', bao vây, như ngôn ngữ thể hiện sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của Kiều:
Buồn nhìn gió cuốn mặt đất lên,
Sóng kêu ầm ầm quanh ghế ngồi.
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn từ miêu tả thiên nhiên, miêu tả bên ngoài mang ý nghĩa và giá trị như một biểu tượng, một tượng trưng về tâm trạng đau đớn và số phận u ám của một cuộc đời trong vòng xoáy bi kịch.
Một loạt từ láy: thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm tạo ra âm điệu u buồn, âm u, đáng sợ. Ở vị trí đầu dòng thơ, điệp ngữ 'buồn nhìn' được lặp lại như một lời kêu gọi bi ai, đau lòng, miêu tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng của Thúy Kiều khiến người đọc đầy xúc động:
'... Buồn nhìn nội cỏ rầu rầu,
... Buồn nhìn gió cuốn mặt đất lên...'
Tóm lại, đoạn thơ về Kiều ở lầu Ngưng Bích là một cảnh tượng kỳ lạ về 'đoạn trường'. Một bức tranh phong phú, đa dạng về cảnh vật và tâm trạng đã mô tả nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều phải trải qua, dự đoán những sóng gió bão bùng mà nàng sẽ phải đối mặt trong 15 năm lưu lạc 'thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần', có lửa đỏ, có khói than, cười ra tiếng khóc, khóc ra tiếng cười...
Nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du rất tinh tế, mang đậm tinh thần. Cảnh vật và tình cảnh hòa hợp, sống động, hình ảnh, cảm xúc. Miêu tả cảnh vật để thể hiện tình cảm, trong cảnh vật có tình cảm, lấy cảnh vật để phô diễn tâm trạng 'người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Mỗi cảnh vật đều là một nỗi đau, một nỗi lo, một nỗi buồn không dứt của người con gái lưu lạc.
Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Nó đánh thức trong lòng mỗi người những nỗi xót thương về con người tài sắc bạc mệnh. Sự yêu thương, lòng nhân hậu, sự đồng cảm, chia sẻ của nhà thơ với nỗi đau của Thúy Kiều đã để lại dấu ấn sâu sắc trong trái tim của người đọc suốt hàng thế kỷ qua:
Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều.
(Tố Hữu)
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm lớn và xuất sắc nhất của Nguyễn Du. Để tạo ra tác phẩm tuyệt vời này, ông đã thành công trong việc sử dụng các phép tu từ, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích về Kiều ở lầu Ngưng Bích có lẽ là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt vời nhất trong tác phẩm, qua đó đã sinh động diễn tả tâm trạng của Thuý Kiều khi bị giam cầm tại lầu Ngưng Bích, ghi lại dấu ấn không thể phai nhạt trong lòng người đọc:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Khung cảnh thiên nhiên của bờ biển trước lầu Ngưng Bích như hiện lên trước mắt ta: một nỗi buồn chiều hoàng hôn đẹp mà buồn bã và trống rỗng. Đó là những chiếc thuyền với những cánh buồm trắng nhấp nhô, những con sóng bạc dập dềnh cuốn trôi từng cánh hoa, lác đác rơi trong ánh nắng cuối chiều, những đám cỏ xanh ươm nối liền con đường chân trời xanh vô hạn. Cùng với âm thanh dữ dội của biển khơi như một nét chấm phá cho cảnh vật, bức tranh thiên nhiên chứa đựng trong nó biết bao nỗi niềm chất chứa của con người...
Qua những từ ngữ và hình ảnh miêu tả cảnh vật, bằng cách sử dụng khéo léo và tinh tế bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã khiến ta hiểu và cảm thông với tâm trạng của nàng Kiều.
Điệp ngữ 'buồn trông' được sử dụng liên tục trong đoạn trích tạo thành một điệu nhảy cho đoạn thơ và cũng tạo ra một điệu nhảy cho tâm trạng của Thuý Kiều. Nỗi buồn trong Kiều giống như làn sóng lớn dồn về phía đại dương bao la. Nỗi niềm ấy cứ lan tràn, cứ mãnh liệt, cứ bám víu, tạo thành một vòng xoáy không lối thoát, con người ta muốn vùng lên nhưng lại không thể. Mỗi cảnh vật đều như đang kể lên nỗi niềm tâm sự ấy.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Chiếc thuyền không nơi bến đậu, không điểm trở về, gợi nhớ nỗi nhớ, nỗi cô đơn của người đi xa, muốn trở về bên gia đình ấm áp, bên bạn bè thân thương, điều này phản ánh đúng với cảnh ngộ của Kiều.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cuộc đời Kiều bây giờ giống như cánh hoa mong manh trước sóng to gió lớn, chỉ biết đối mặt với cơn bão, cơn mưa cuốn trôi. Câu thơ phản ánh nỗi lo lắng, đau buồn, thất vọng về cảnh ngộ lênh đênh chìm nổi trước sóng gió cuộc đời.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Thảm cỏ, biển cả với màu xanh vô vọng thật buồn và u tối. Liệu có phải cánh cửa tương lai đang đóng lại trước mắt Kiều, hố đen tuyệt vọng của số phận như lấp hết ước mơ và khát vọng.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Ở ngoài kia, biển xanh đang cuộn sóng. Những âm thanh đang gợi lên những sự việc kinh hoàng, sợ hãi, như một dấu hiệu của tai họa, nguy cơ sắp ập xuống đời sống mong manh của Kiều.
Từng câu hỏi tu từ nảy lên như muốn khai quật sâu vào tâm hồn của người đọc. Ta cảm nhận, đồng cảm, thương xót cho những lo lắng, sự rối bời và nỗi hoảng sợ tuyệt vọng của Kiều trước tương lai không biết rõ ràng.
Có thể nói, đây là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình tốt nhất trong toàn bộ tác phẩm. Qua bức tranh thiên nhiên, ta đắm chìm trong niềm đau xót, lòng thương cảm với số phận của một người phụ nữ tài năng nhưng không may mắn, đồng thời thể hiện sự đồng cảm, trân trọng của Nguyễn Du với số phận của phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa.