Họ Cá thu ngừ | |
---|---|
Cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Nhánh | Craniata |
Phân ngành (subphylum) | Vertebrata |
Phân thứ ngành (infraphylum) | Gnathostomata |
Liên lớp (superclass) | Osteichthyes |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Nhánh | Actinopteri |
Phân lớp (subclass) | Neopterygii |
Phân thứ lớp (infraclass) | Teleostei |
Nhánh | Osteoglossocephalai |
Nhánh | Clupeocephala |
Nhánh | Euteleosteomorpha |
Nhánh | Neoteleostei |
Nhánh | Eurypterygia |
Nhánh | Ctenosquamata |
Nhánh | Acanthomorphata |
Nhánh | Euacanthomorphacea |
Nhánh | Percomorphaceae |
Nhánh | Pelagiaria |
Bộ (ordo) | Scombriformes |
Họ (familia) | Scombridae |
Các chi | |
Acanthocybium |
Nhóm Cá thu ngừ hay còn gọi là nhóm Cá bạc má (danh pháp khoa học: Scombridae) là một họ cá bao gồm các loài như cá thu, cá ngừ và nhiều loài cá khác có giá trị kinh tế và thương mại cao, đồng thời là các loại cá thực phẩm phổ biến. Họ này có khoảng 55 loài thuộc 15 chi khác nhau. Tên gọi 'thu ngừ' là sự kết hợp của cá thu và cá ngừ.
Các loài cá thuộc nhóm này có hai vây lưng, mỗi vây có thể chuyển thành các đường khía trên lưng và một loạt các vây nhỏ (gai) giữa vây lưng sau và vây hậu môn cùng với đuôi. Phần gốc đuôi mảnh mai và vây đuôi được phân chia rõ rệt. Kích thước các loài trong nhóm này rất đa dạng, từ khoảng 20 cm ở cá thu đảo cho đến 458 cm ở cá ngừ vây xanh phương bắc.
Những loài cá thu và cá ngừ thường là những loài cá ăn thịt sống ở đại dương, và chúng có khả năng di chuyển với tốc độ rất nhanh.
Một số loài trong nhóm này, đặc biệt là cá ngừ, nổi bật với khả năng giữ nhiệt (động vật máu nóng).
Một ví dụ tiêu biểu của nhóm này là chi cá bạc má (Rastrelliger), được tìm thấy ở các vùng biển nhiệt đới thuộc Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, bao gồm cả vùng biển Việt Nam. Tại Việt Nam, cá bạc má thường sống ở vùng ven bờ biển, ở độ sâu từ 12 – 100 m, nhưng chủ yếu tập trung ở độ sâu 25 – 70 m.
Các loài thuộc chi này thường tụ tập thành đàn lớn và di chuyển gần bờ khi mùa gió thay đổi. Ở biển Việt Nam, cá bạc má thường gặp là cá bạc má (Rastrelliger kanagurta) và cá bạc má ngắn vây (R. chrysozonus). Chi cá thu (Scomber) thuộc họ cá bạc má, thường được gọi là cá thu bạc má. Tất cả các loài cá bạc má đều có giá trị kinh tế cao. Cần lưu ý rằng ngư dân ở nhiều vùng còn gọi chi cá trác (Selar), thuộc họ Cá khế (Carangidae), là cá bạc má.
Tại Việt Nam, cá bạc má còn được gọi là cá ba thú. Cá ba thú là loại cá nhỏ, khoảng 3 ngón tay xếp ngang, trong khi loại từ ba ngón tay trở lên thì gọi là cá bạc má. Các loài gần giống bao gồm: cá song, cá ngân bột, cá thu ngừ, cá lem, cá thu, cá ngừ, cá ảo, cá chao cháo (mắt lồi).
Phân loại
Jordan, Evermann và Clark (1930) đã phân loại các loài cá này thành bốn họ: Cybiidae, Katsuwonidae, Scombridae (nghĩa hẹp) và Thunnidae. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng được phân loại theo FishBase và gộp thành một họ duy nhất là Scombridae (nghĩa rộng).
Truyền thống phân loại cho nhóm này thuộc phân bộ Scombroidei trong bộ Perciformes. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Betancur và cộng sự (2013, 2014), nhóm này đã được chuyển sang bộ mới gọi là Scombriformes, và chỉ có mối quan hệ xa với Perciformes theo nghĩa mới.
Danh sách dưới đây bao gồm khoảng 54 loài thuộc 15 chi:
- Chi Acanthocybium
- Acanthocybium solandri (Cuvier, 1832): Wahoo.
- Chi Allothunnus
- Allothunnus fallai Serventy, 1948: Cá ngừ thân mảnh.
- Chi Auxis
- Auxis brachydorax Collette & Aadland, 1996
- Auxis eudorax Collette & Aadland, 1996
- Auxis rochei (Rafinesque, 1810): Cá ngừ ồ.
- Auxis thazard (Lacepède, 1800): Cá ngừ chù, cá ngừ dẹt.
- Chi Cybiosarda
- Cybiosarda elegans (Whitley, 1935): Cá ngừ nhảy.
- Chi Euthynnus
- Euthynnus affinis (Cantor, 1849): Cá ngừ chấm, cá ngừ Đài Loan.
- Euthynnus alletteratus (Rafinesque, 1810): Cá ngừ nhỏ.
- Euthynnus lineatus Kishinouye, 1920: Cá ngừ sọc đen.
- Chi Gasterochisma
- Gasterochisma melampus
- Gasterochisma melampus
- Chi Grammatorcynus
- Grammatorcynus bicarinatus (Quoy & Gaimard, 1825): Cá thu mập.
- Grammatorcynus bilineatus (Rüppell, 1836): Cá thu vạch kép.
- Chi Gymnosarda
- Gymnosarda unicolor (Rüppell, 1836): Cá ngừ răng chó.
- Chi Katsuwonus
- Katsuwonus pelamis (Linnaeus, 1758): Cá ngừ vằn.
- Chi Orcynopsis
- Orcynopsis unicolor (Geoffroy Saint-Hilaire, 1817): Cá ngừ phẳng.
- Chi Rastrelliger
- Rastrelliger brachysoma (Bleeker, 1851): Cá ba thú hay cá thu ngắn.
- Rastrelliger faughni Matsui, 1967: Cá thu đảo.
- Rastrelliger kanagurta (Cuvier, 1816), đồng nghĩa: R. chrysozonus: Cá bạc má.
- Chi Sarda
- Sarda australis (Macleay, 1881): Cá ngừ Australia.
- Sarda chiliensis (Cuvier, 1832): Cá ngừ đông Thái Bình Dương.
- Sarda lineolata (Girard, 1858): Cá ngừ Thái Bình Dương.
- Sarda orientalis (Temminck & Schlegel, 1844): Cá ngừ sọc dưa.
- Sarda sarda (Bloch, 1793): Cá ngừ Đại Tây Dương.
- Chi Scomber
- Scomber australasicus Cuvier, 1832: Cá thu lam.
- Scomber colias Gmelin, 1789: Cá thu bống Đại Tây Dương.
- Scomber japonicus Houttuyn, 1782: Cá thu bống, cá sa ba.
- Scomber scombrus Linnaeus, 1758: Cá thu Đại Tây Dương.
- Chi Scomberomorus
- Scomberomorus brasiliensis Collette, Russo & Zavala-Camin, 1978: Cá thu Tây Ban Nha Serra.
- Scomberomorus cavalla (Cuvier, 1829): Cá thu vua.
- Scomberomorus commerson (Lacépède, 1800): Cá thu Tây Ban Nha sọc hẹp.
- Scomberomorus concolor (Lockington, 1879): Cá thu Tây Ban Nha Monterey.
- Scomberomorus guttatus (Bloch & Schneider, 1801): Cá thu chấm.
- Scomberomorus koreanus (Kishinouye, 1915): Cá thu Triều Tiên.
- Scomberomorus lineolatus (Cuvier, 1829): Cá thu sọc.
- Scomberomorus maculatus (Couch, 1832): Cá thu Tây Ban Nha Đại Tây Dương.
- Scomberomorus multiradiatus Munro, 1964: Cá thu Papua.
- Scomberomorus munroi Collette & Russo, 1980: Cá thu đốm Australia.
- Scomberomorus niphonius (Cuvier, 1832): Cá thu Nhật Bản.
- Scomberomorus plurilineatus Fourmanoir, 1966: Cá thu Kanadi.
- Scomberomorus queenslandicus Munro, 1943: Cá thu Queensland.
- Scomberomorus regalis (Bloch, 1793): Cá thu Cero.
- Scomberomorus semifasciatus (Macleay, 1883): Cá thu vua sọc rộng.
- Scomberomorus sierra Jordan & Starks, 1895: Cá thu sierra Thái Bình Dương.
- Scomberomorus sinensis (Lacépède, 1800): Cá thu Trung Quốc.
- Scomberomorus tritor (Cuvier, 1832): Cá thu Tây Phi.
- Chi Thunnus
- Thunnus alalunga (Bonnaterre, 1788): Cá ngừ thịt trắng (Albacore).
- Thunnus albacares (Bonnaterre, 1788): Cá ngừ vây vàng.
- Thunnus atlanticus (Lesson, 1831): Cá ngừ vây đen.
- Thunnus maccoyii (Castelnau, 1872): Cá ngừ vây xanh phương nam.
- Thunnus obesus (Lowe, 1839): Cá ngừ mắt to.
- Thunnus orientalis (Temminck & Schlegel, 1844): Cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương.
- Thunnus thynnus (Linnaeus, 1758): Cá ngừ vây xanh phương bắc.
- Thunnus tonggol (Bleeker, 1851): Cá ngừ đuôi dài.
Đặc điểm sinh học
Cá bạc má có hình dáng thuôn dài và hơi dẹt bên. Tại Việt Nam, kích thước cá bạc má đánh bắt dao động từ 72 đến 280 mm, với trung bình là 209 mm. Kích thước đánh bắt ở các vùng biển khác nhau cũng có sự khác biệt, ví dụ như ở Vũng Tàu từ 72 đến 295 mm, Côn Đảo từ 62 đến 260 mm, và Phan Thiết từ 135 đến 295 mm. Phương trình mối quan hệ chiều dài - khối lượng cá bạc má được biểu diễn bằng công thức: W = 0,084 x L x 2,23.
Cá bạc má có vây đuôi mảnh mai và nổi bật với 2 đến 3 gờ da ở mỗi bên cơ thể. Hai vây lưng không nối liền nhau. Sau vây lưng thứ hai và vây hậu môn có các vây phụ. Vây ngực của cá cao, giúp cá bơi nhanh và mạnh mẽ, phù hợp với lối sống di cư dài.
Cá bạc má thường tụ tập thành những đàn đông đảo, khác biệt với nhiều loại cá biển khác. Vào ban đêm, chúng di chuyển tạo thành những vầng sáng lấp lánh dưới nước (hình ảnh ngời cá). Hiện tượng di cư của cá bạc má diễn ra rõ ràng cả ngày lẫn đêm. Sản lượng cá được đánh bắt bằng lưới kéo đáy cao nhất vào bình minh và giữa trưa, trong khi lưới kéo tầng cao nhất hiệu quả nhất từ 20 đến 24 giờ đêm.
Bạc má chủ yếu ăn bọt nước và sứa biển, bao gồm cả động vật nổi như giáp xác và cá con. Thực phẩm chính của chúng là động vật phù du và một số thực vật phù du. Trong động vật phù du, Oncaea chiếm 39,8%, Copepoda 11,4%, Megalopa larva 9,4%, v.v. Trong thực vật phù du, tảo khuê chiếm 89,7%, với Coscinodiscus 22,9% và Nitzschia 11,2%. Cá cái có cường độ bắt mồi cao hơn cá đực, và cá chưa chín muồi sinh dục bắt mồi nhiều hơn cá trưởng thành.
Tại Việt Nam, cá bạc má được phân loại thành 4 nhóm tuổi, với nhóm 2 tuổi chiếm ưu thế khoảng 64,4%. Nhóm 1 tuổi chiếm 19,7%, nhóm 3 tuổi chiếm 12,0%, và nhóm 4 tuổi chiếm 3,9%.
Cá bạc má có tốc độ sinh trưởng nhanh trong năm đầu, đạt trung bình 113 mm. Sau năm thứ 2, tốc độ tăng trưởng chậm lại. Mùa sinh sản của cá kéo dài từ cuối mùa khô (tháng ba) đến cuối mùa mưa (tháng mười hai), với hai đỉnh sinh sản chính vào tháng 3 – 6 và tháng 9 – 10. Chiều dài cá khi sinh sản lần đầu dao động từ 140 mm đến 200 mm. Nhiệt độ nước biển thích hợp cho sinh sản của cá là 26–27,5 °C và độ mặn từ 3,0–3,4%.
Hoạt động đánh bắt tại Việt Nam
Tại Việt Nam, cá bạc má luôn đứng đầu trong danh sách các loài cá nổi nhỏ với sản lượng cao nhất, đồng thời là thực phẩm được ưa chuộng trên thị trường nội địa. Loài cá này không chỉ phục vụ nhu cầu của cộng đồng ven biển mà còn cung cấp nguồn đạm động vật cho các khu vực sâu, xa và miền núi.
Tỷ lệ cá bạc má trong sản lượng đánh bắt bằng lưới vây ở các vùng biển có sự dao động đáng kể qua ba năm. Tại tỉnh Bình Thuận (Đông Nam Bộ) và Nghệ An (vịnh Bắc Bộ), tỷ lệ cá bạc má chiếm 12,4% và 9,3% trong tổng sản lượng của nghề lưới vây.
Sản lượng và năng suất đánh bắt cá bạc má ở ba vùng biển có sự biến động mạnh mẽ theo từng tháng. Tại vịnh Bắc Bộ và Đông Nam Bộ, các tháng có sản lượng cá bạc má cao nhất thường rơi vào mùa gió mùa Đông Bắc.
Tổng sản lượng cá bạc má khai thác bằng lưới vây đạt 4.842 tấn/năm tại vịnh Bắc Bộ, 4.050 tấn/năm tại Trung Bộ và cao nhất là 6.560 tấn/năm ở Đông Nam Bộ. Sản lượng cá bạc má thể hiện sự biến động rõ rệt theo mùa gió mùa, chu kỳ ngày-đêm và độ sâu. Chiều dài tối ưu của cá bạc má được đánh bắt ở ba vùng biển nghiên cứu là nhóm cá trên 2 tuổi, dao động từ 200 – 220 mm.
Tại vùng biển Trung Bộ, để đảm bảo sản lượng bền vững và tăng cường hiệu quả kinh tế, nên duy trì cường lực khai thác hiện tại. Đối với vùng biển Đông Nam Bộ, cần giảm cường lực khai thác khoảng 10% so với hiện tại. Trong khi đó, tại vịnh Bắc Bộ, có thể gia tăng cường lực khai thác, tuy nhiên sản lượng dự kiến chỉ tăng không đáng kể.
Sản lượng và hiệu quả khai thác
Tại vịnh Bắc Bộ, năng suất và sản lượng khai thác của các đội tàu khá cao và có sự biến động lớn theo từng tháng. Cá bạc má mang lại sản lượng cao và năng suất tốt nhất trong các tháng 1, 2, 3, 9, 10, 11 và 12.
Ở vùng biển Trung Bộ, năng suất và sản lượng khai thác của cá bạc má cũng có sự biến động mạnh mẽ tương tự như tại vịnh Bắc Bộ. Mùa vụ đánh bắt ở đây ít thay đổi qua các năm và chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, do đó có thể có những tháng không có sản lượng.
Tại vùng biển Đông Nam Bộ, năng suất và sản lượng khai thác của cá bạc má cũng biến động mạnh mẽ theo thời gian. Các tháng 1, 2, 3, 10, 11 và 12 thường mang lại sản lượng và hiệu quả khai thác cao hơn các tháng khác.
Tổng sản lượng khai thác
Sản lượng cá bạc má từ nghề lưới vây ở các vùng biển được nghiên cứu có sự biến động lớn qua các năm và có xu hướng giảm dần.
Tại vùng biển vịnh Bắc Bộ, sản lượng cá bạc má ước tính là 4.190 tấn trong năm 2003, 6.633 tấn trong năm 2004 và giảm xuống 3.703 tấn trong năm 2005, với trung bình khoảng 4.842 tấn. Ở miền Trung, sản lượng ước tính trong năm 2003 là 2.904 tấn, năm 2004 là 5.428 tấn và năm 2005 là 3.818 tấn, trung bình đạt 4.050 tấn.
Tại Đông Nam Bộ, sản lượng cá bạc má ghi nhận khá cao, với 11.511 tấn trong năm 2003, giảm còn 3.769 tấn vào năm 2005, trung bình đạt 6.560 tấn.
Phân bố sản lượng
- Theo chiều sâu:
Mật độ cá bạc má tăng dần từ độ sâu 20 m lên 50 m, với năng suất đánh bắt từ 0,27 kg/giờ đến 0,83 kg/giờ. Tần suất xuất hiện của loài cá này trong khoảng độ sâu này cũng cao hơn so với các độ sâu khác.
Ở các vùng có độ sâu trên 100 m, cá bạc má hầu như không bị đánh bắt bằng lưới kéo đáy. Dải độ sâu tối ưu cho lưới kéo đáy để khai thác cá bạc má hiệu quả nhất là từ 30 – 50 m.
- Theo thời gian trong ngày:
Dựa trên sự thay đổi sản lượng cá bạc má trong các mẻ lưới kéo đáy và các tín hiệu từ máy thủy âm, cá bạc má là loài cá nổi có thói quen di chuyển dọc theo chiều sâu theo chu kỳ ngày đêm. Trong suốt ban ngày, chúng thường ở các tầng nước sâu, còn ban đêm, chúng di chuyển lên các tầng nước gần mặt biển.
- Theo mùa gió:
Trong mùa gió Đông Bắc, sản lượng cá bạc má đạt đỉnh chủ yếu ở các khu vực vịnh Bắc Bộ và Tây Nam Bộ.
Tại vịnh Bắc Bộ, mùa Đông Bắc với thời tiết lạnh khiến cá tập trung ở giữa vịnh, ở độ sâu trên 50 m, và có xu hướng di chuyển từ Bắc vào Nam.
Trong mùa gió Tây Nam, từ tháng 4, khi nhiệt độ bắt đầu tăng, cá bạc má phân bố rộng hơn, xuất hiện khắp các vùng biển. Hướng di chuyển của cá trong mùa này là từ Nam lên Bắc và gần bờ để sinh sản, trái ngược với mùa gió Đông Bắc.
Trữ lượng và khả năng khai thác
Trữ lượng cá bạc má tại vùng biển vịnh Bắc Bộ là 6.270 tấn với mức khai thác bền vững tối đa (MSY) đạt 4.521 tấn. Tại Trung Bộ, trữ lượng là 6.536 tấn với MSY là 5.378 tấn, còn ở Đông Nam Bộ, trữ lượng là 6.861 tấn và MSY là 5.475 tấn.
- Vùng biển vịnh Bắc Bộ:
Tại vùng biển vịnh Bắc Bộ, cá bạc má có chiều dài từ 185 – 295 mm được phân loại thành 22 nhóm, mỗi nhóm cách nhau 5 mm, trong đó các nhóm từ 220 – 270 mm là phổ biến nhất.
Trữ lượng cá bạc má ở vịnh Bắc Bộ được xác định là 6.270 tấn, tương đương với khoảng 58 triệu con, với khả năng khai thác bền vững tối đa (MSY) là 4.521 tấn.
- Vùng biển Trung Bộ:
Trữ lượng cá bạc má tại vùng biển Trung Bộ được ước tính là 6.536 tấn, tương đương với khoảng 132 triệu con, và khả năng khai thác bền vững tối đa (MSY) là 5.378 tấn. Nhóm cá có chiều dài từ 100 – 180 mm, chủ yếu là cá nhỏ chưa đạt kích thước khai thác, chiếm đến 56,9% tổng số cá bắt được, tương đương với 1.222 tấn.
- Vùng biển Đông Nam Bộ:
Tại vùng biển Đông Nam Bộ, trữ lượng cá bạc má đạt 6.860 tấn, tương ứng với 96 triệu con. Khả năng khai thác bền vững tối đa (MSY) là 5.475 tấn. Các cá có chiều dài từ 195 – 235 mm là nhóm chiếm ưu thế nhất.
Một số địa phương tiêu biểu
- Tại Nghệ An, cá bạc má chiếm tỷ lệ tương đối cao trong sản lượng đánh bắt, đạt 9,3%, chỉ đứng sau cá Nục sồ với 5,7%. Tỷ lệ sản lượng cá bạc má từ năm 2003 đến 2005 biến động nhẹ và có xu hướng giảm dần, từ 9,6% năm 2003 xuống 9,0% năm 2004 và 9,3% năm 2005.
- Tại Quảng Nam, cá bạc má đứng thứ 3 với tỷ lệ 4,9% trong tổng sản lượng. Tỷ lệ này biến động lớn và có xu hướng giảm từ 5,6% năm 2003 xuống 4,7% năm 2005.
- Tại Khánh Hoà, cá bạc má chỉ chiếm 2,1% tổng sản lượng đánh bắt, thấp hơn so với các tỉnh khác và có sự biến động lớn qua các năm. Năm 2003, tỷ lệ sản lượng cá bạc má gần như không đáng kể, năm 2004 là 4,2%, và năm 2005 giảm xuống 1,8%.
- Tại Bình Thuận, cá bạc má chiếm tỷ lệ cao hơn so với các tỉnh khác với 12,4%, đứng thứ 3 sau cá nục sồ (34,8%) và cá nục thuôn (27,4%). Tỷ lệ sản lượng của cá bạc má tăng dần từ năm 2003 đến 2005, từ 7,8% lên 17,6%.
- Tại Bến Tre, cá bạc má chiếm 4,0% tổng sản lượng khai thác, đứng thứ 3 sau cá nục sồ (32,8%) và cá nục thuôn (12,2%). Tỷ lệ sản lượng cá bạc má biến động nhẹ, từ 3,6% năm 2003 lên 5,5% năm 2005.
Liên kết tham khảo
- Biology, Assessment and Management of Fisheries, King M, Fishing New Book, 1995, từ trang 01 đến trang 341.
- Quy trình chuẩn cho việc thu thập và phân tích dữ liệu, Thông tin về nghề cá pelagic bền vững ở Biển Đông, SEAFDEC MFRDMD, 2004, từ trang 01 đến trang 47.
- Giới thiệu về đánh giá nguồn cá nhiệt đới, Phần 1. Sperre P, S.C. Venema, Manual. FAO, Rome, No. 306, Rev. 2, 1998, từ trang 01 đến trang 376.
- Đặc điểm sinh học của một số loài cá nổi di cư thuộc họ cá Nục (Decapterus), cá Bạc Má (Rastrelliger) và cá Ngừ ở vùng biển Việt Nam, Tuyển tập các công trình nghiên cứu 'Nghề cá Biển' Tập 1, Chu Tiến Vĩnh, Bùi Đình Chung, Nguyễn Phi Đính (1998).
- Dữ liệu liên quan đến Scombridae trên Wikispecies
- Tư liệu về Scombridae trên Wikimedia Commons
Nhóm các loài thủy sản thương mại thiết yếu | ||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tự nhiên |
| |||||||||||||||||
Nuôi | Bộ Cá chép (Cá mè hoa, Cá chép, Cá giếc, Cá trắm cỏ, Cá mè trắng) · Cá da trơn · Tôm he nước ngọt · Trai · Sò · Cá hồi (Đại Tây Dương, hương, coho, chinook) · Cá rô phi · Tôm | |||||||||||||||||
Ngư nghiệp · Sản lượng cá thế giới · Từ điển thủy sản |
Thẻ nhận dạng đơn vị phân loại |
|
---|
Tiêu đề chuẩn |
|
---|