
Kiến sư tử Cúc hay Cút | |
---|---|
Thời điểm hóa thạch: 251–0 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
| |
Con trưởng thành của loài Distoleon tetragrammicus | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Phân giới (subregnum) | Eumetazoa |
Liên ngành (superphylum) | Ecdysozoa |
Ngành (phylum) | Arthropoda |
Nhánh | Mandibulata |
Phân ngành (subphylum) | Hexapoda |
Lớp (class) | Insecta |
Phân lớp (subclass) | Pterygota |
Phân thứ lớp (infraclass) | Neoptera |
Liên bộ (superordo) | Endopterygota hay Neuropterida |
Bộ (ordo) | Neuroptera
|
Phân bộ (subordo) | Myrmeleontiformia |
Liên họ (superfamilia) | Myrmeleontoidea |
Họ (familia) | Myrmeleontidae |
Phân họ | |
Acanthaclisinae | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Nhóm Kiến sư tử (tên khoa học Myrmeleontidae) hay còn gọi là Cúc hay Cút là một họ côn trùng thuộc bộ Cánh gân (Neuroptera). Nhóm Kiến sư tử bao gồm 2 nghìn loài với chi được biết đến nhiều nhất trong họ này là chi cùng tên (Myrmeleo).
Thực chất, nếu định nghĩa một cách nghiêm ngặt, thì thuật ngữ 'kiến sư tử' hay 'cúc' chỉ dùng để ám chỉ dạng ấu trùng của loài này, và trong một số ngôn ngữ thì dạng ấu trùng và dạng trưởng thành có hai tên gọi hoàn toàn khác nhau. Trong tiếng Anh, dù dạng trưởng thành cũng được gọi là 'kiến sư tử', chúng cũng có một tên khác là 'kiến sư tử cánh viền' ('antlion lacewings'). Ở Bắc Mỹ, loài này cũng được gọi là 'bọ nguệch ngoạc' (doodlebug) vì các dấu vết như nét vẽ nguệch ngoạc chúng để lại trên cát trong quá trình tìm nơi thích hợp để đào hang. Trong tiếng Việt, cái tên 'con cúc' bắt nguồn từ việc chúng có hình dạng từa tựa như cái cúc áo nhỏ hình hạt đậu xanh.
Mô tả và đời sống sinh thái

Kiến sư tử phân bố rộng khắp trên toàn cầu, nhưng phổ biến nhất là ở những vùng đất cát và khô. Một số loài kiến sư tử sống ở các vùng ôn đới lạnh, như loài kiến sư tử châu Âu Euroleon nostras (với chiều dài cánh từ 2 đến 15 cm). Ấu trùng của kiến sư tử ăn các loài kiến nhỏ, đây cũng là nguồn gốc của tên gọi “kiến sư tử”. Ngược lại, kiến sư tử trưởng thành ăn mật hoa, phấn hoa hoặc một số loài chân khớp nhỏ khác. Ấu trùng của loài côn trùng Dendroleon pantheormis không đào hang hình phễu như những loài khác mà chúng ẩn nấp trong các khe nứt và lùng bắt con mồi đi ngang qua.
Kiến sư tử trưởng thành có hai cặp cánh dài hẹp, có nhiều gân, trong đó gân trên tạo ra các ô vuông chất đều. Phần bụng của chúng dài và thon. Dù có hình dạng giống như chuồn chuồn hay chuồn chuồn kim, cúc và chuồn chuồn thuộc hai bộ côn trùng khác nhau hoàn toàn. Để phân biệt giữa cúc và chuồn chuồn kim, ta nhìn vào những râu của kiến sư tử/cúc có phần đầu phình to và râu dài bằng ngực và bụng tổng thể. Ngoài ra, cánh của kiến sư tử và chuồn chuồn cũng khác nhau, với “tế bào gai vô cùng dài (sau điểm giao hợp giữa Sc và R1) có chiều dài lớn gấp nhiều lần chiều rộng”.
Chu kỳ sống của cúc bắt đầu bằng giai đoạn trứng: con cái cúc liên tục dùng bụng xới đất và đẻ trứng vào lòng đất. Ấu trùng kiến sư tử có hình dạng vô cùng nổi bật và hung dữ với thân hình thoi, mập mạp, bụng to, ba cặp chân ngực và ngực trước kéo dài thành “cổ” nối với một đầu hình vuông, bẹt phẳng có cặp “kìm” dài lớn có nhiều gai nhọn. Hai hàm này hình thành từ hai hàm của con vật, mỗi hàm chứa một ống nọc độc dùng để tiêu diệt con mồi. Tùy loài và môi trường sống, cúc có thể đào một hang bẫy hình phễu để sinh sống hoặc đơn giản là ẩn nấp dưới gỗ, lá hoặc trong các kẽ nứt đá. Điều đặc biệt là ấu trùng kiến sư tử không có hậu môn, mọi chất thải sẽ tích trữ trong cơ thể và được bài tiết cuối giai đoạn nhộng.
Giai đoạn nhộng của cúc khá lặng lẽ về bề ngoài. Con vật xây một tổ nhỏ hình cầu từ cát và lông mịn tiết ra từ tuyến lông ở đuôi. Tổ này được chôn sâu dưới lòng đất và con vật ở trong đó suốt một tháng cho đến khi quá trình biến thái hoàn tất và kiến sư tử trưởng thành sẵn sàng để sinh sản. Lúc này, con cúc sẽ bò ra khỏi tổ, để lại vỏ nhộng trong đó và sau chừng 20 phút, cánh của cúc đã được bơm đầy máu, căng cứng và con vật có thể bay đi khắp nơi để tìm bạn tình. Cúc trưởng thành có kích thước lớn hơn rất nhiều so với ấu trùng, thực tế là sự chênh lệch về kích thước giữa ấu trùng kiến sư tử và dạng trưởng thành là rất đáng kể so với các loài côn trùng khác có quá trình biến thái hoàn toàn. Chính vì vậy, kiến sư tử trưởng thành có cấu trúc xương ngoài rất mỏng và tỉ trọng cơ thể rất thấp.



Lỗ trống của cúc


Ấu trùng của con cúc có kích thước trung bình sẽ đào một hang hình phễu sâu khoảng 2 inch (5,08 cm) và rộng khoảng 3 inch (7,62 cm) để bắt mồi. Việc đào hang này cũng đã được ghi nhận ở một họ ruồi là Vermileonidae. Sau khi đánh dấu vị trí thích hợp để đào hang bằng một đường xoi hình tròn, con cúc bắt đầu đào hang bằng cách sử dụng phần chót của bụng để xúc cát lên. Với sự hỗ trợ của một chân trước, nó xúc từng đống cát một và dùng bụng đẩy đống cát về phía trước. Bằng cách này, từ chu vi của con cúc tiến dần về trung tâm của hang. Hang dần sâu hơn cho đến khi góc dốc của hang đạt tới giá trị gọi là góc phản ứng tới hạn - tức là góc dốc lớn nhất mà bề mặt cát có thể giữ ổn định và chỉ cần một chút dao động thì bề mặt cát sẽ sụt lở. Sau khi đào xong hang, con vật sẽ chui xuống đáy, chống đít xuống dưới đất, đầu ngẩng lên trời và chôn thân mình ngập trong cát, chỉ để lộ cái hàm sắc nhọn lên trên.
Như đã đề cập, vì góc dốc của hang đạt giá trị góc phản ứng tới hạn, hang này sẽ dễ bị sạt lở khi một động vật nhỏ (như kiến) vô tình đặt chân vào, làm con vật trượt chân và rơi xuống lòng hố, nơi kiến sư tử đợi sẵn. Nếu con mồi cố gắng leo lên miệng hố, con cúc sẽ đẩy đất cát từ đáy hố lên trên, khiến cát sạt lở liên tiếp và kéo con mồi xuống đáy.
Con mồi của kiến sư tử rất đa dạng, từ các loài côn trùng nhỏ như kiến cho đến một số loài chân khớp nhỏ khác, bao gồm cả nhện. Như đã đề cập, những chiếc gai sắc nhọn trên hàm của cúc có một ống rỗng bên trong giúp nó hút chất lỏng từ cơ thể con mồi. Sau khi tiêu thụ hết 'thịt', con cúc sẽ đẩy vỏ rỗng của nạn nhân ra khỏi hang để không để lộ vết nơi đã từng có nhiều nạn nhân của cúc. Hang của kiến sư tử tiếp tục được chỉnh trang lại để chờ đón con mồi mới.
Kiến sư tử thường xuất hiện nhiều ở các vùng đất cát mềm dưới gốc cây hoặc trong các hốc nằm dưới các tảng đá nổi lên khỏi mặt đất. Con cúc đặc biệt thích các vùng đất khô và được che chắn không bị mưa rơi. Sau khi no nê từ ăn uống một thời gian, con cúc lớn dần và sau một thời gian nào đó, nó tiến vào giai đoạn nhộng, tạo kén và biến hình thành dạng trưởng thành. Quá trình ấu trùng có thể kéo dài đến 2 hoặc 3 năm do nguồn thức ăn cho con cúc không ổn định và thường xuyên. Khi mới nở, con cúc rất nhỏ nên hang đào và con mồi cũng nhỏ; sau này khi lớn lên, nó xây dựng những hang to hơn và bắt những con vật lớn hơn.
Trong tác phẩm Phong lưu xưa và nay của Vương Hồng Sển có nhắc đến việc săn bắt cúc để sử dụng như đá dế.
“ | Mà rồi cũng vì tánh hiếu chiến nên cúc và cống bị hại: trong Nam, học trò nghèo mấy chục năm về trước, đều biết cách đi bắt cúc và cống ngoài đồng cát. Cứ sắm một cây chưn nhang, một đầu gắn một cục sáp nhỏ; trên sáp nhét một sợi tóc ngắn ngắn, lấy đó làm khí cụ bắt cúc và cống. Dòm dưới đất, thấy lỗ nào trẹt trẹt, láng láng, ấy là lỗ cúc hay lỗ cống đây rồi. Sẽ ngồi xuống, lấy tay xoe nhẹ đầu chưn nhang. Sợi tóc thay cho con vật, cào cào sột sạt trên cát: cúc và cống, tin chắc đó là con vật té hầm, phóng mình lên xem: bị bắt mười con không sót một! Đem về, để hai con chung một chén nhỏ, chúng nó sẽ cắn nhau còn dữ hơn đá dế! Ấy là thú vui con nhà nghèo mấy chục năm về trước, đâu như bây giờ các cô các cậu vui chơi xe lửa điện, poupée biết nói, đắt tiền thì có mà đâu đổi được thú vui kia, không tốn tiền cha mẹ xu nhỏ xu lớn gì! | ” |
Phân loại
Những người có mối quan hệ họ hàng gần nhất với kiến sư tử/cúc là các loài côn trùng thuộc họ Ruồi cú (Ascalaphidae). Họ Babinskaiidae đã hoàn toàn tuyệt chủng từ thời tiền sử (hiện chỉ còn lại dưới dạng hóa thạch), cũng là một trong những họ hàng gần gũi nhất. Cả ba nhóm này là những chiến tuyến tiến hóa mạnh mẽ nhất của siêu họ Kiến sư tử (Myrmeleontoidea).
Hầu hết các chi và loài của cúc được phân loại chủ yếu vào các phân họ khác nhau. Một số chi, đặc biệt là những chi chỉ còn tồn tại dưới dạng hóa thạch, có vị trí tiến hóa không rõ ràng. So với tiêu chuẩn của bộ cánh gân, dấu vết hóa thạch của cúc tương đối ít. Tuy nhiên, các dấu vết hóa thạch cổ nhất xác nhận rằng cúc có nguồn gốc từ khoảng 150 triệu năm trước, thuộc kỷ Đại Trung Sinh. Trước đây chúng thuộc vào một họ riêng là Palaeoleontidae, nhưng hiện nay được coi là những đại diện sơ khởi nhất của cúc thực sự.
Dưới đây là danh sách các phân họ của cúc cùng với một số chi và loài đại diện:
- Acanthaclisinae
- Brachynemurinae
- Dendroleontinae
- Bankisus Navás, 1912 (= Navasius)
- Dendroleon (hóa thạch)
- Dimarinae
- Echthromyrmicinae
- Glenurinae
- Myrmecaelurinae
- Myrmeleontinae
- Euroleon Esben-Petersen, 1918
- Euroleon nostras
- Glenoleon Banks, 1913
- Glenoleon falsus
- Glenoleon pulchellus Úc
- Euroleon Esben-Petersen, 1918
- Nemoleontinae (thỉnh thoảng được xếp vào phân họ Myrmeleontinae)
- Palparinae (bao gồm cả Araripeneurinae)
- Pseudimarinae
- Stilbopteryginae
Các chi cúc chưa được phân vào bất kỳ phân họ nào:
- Palaeoleon (hóa thạch)
- Porrerus
- Samsonileon (hóa thạch)
Từ nguyên
Nguồn gốc của cái tên 'kiến sư tử' không được rõ ràng. Có lẽ tên gọi này bắt nguồn từ việc các cụm kiến là nạn nhân chủ yếu của côn trùng này, và cụm từ 'sư tử' mang ý nghĩa 'động vật ăn thịt'. 'Kiến sư tử' cũng có thể chỉ một loại côn trùng không cánh sống dưới đất, lớn hơn rất nhiều so với kiến và thường săn mồi kiến, như người ta gọi sư tử là 'chúa sơn lâm'. Thuật ngữ này dường như có nguồn gốc từ thời cổ đại.
Trong hầu hết các ngôn ngữ châu Âu, ấu trùng của côn trùng này được gọi là 'kiến sư tử':
- Ngôn ngữ Roman: ví dụ formicaleo (tiếng La Tinh cổ), formicaleone (tiếng Ý), formiga-leão (tiếng Bồ Đào Nha), formiga león (tiếng Halychyna), formigues lleó (tiếng Catalunya), fourmilion hay fourmis-lion (tiếng Pháp), hormiga león (tiếng Tây Ban Nha), leii furnicilor (tiếng România)
- Ngôn ngữ German: ví dụ Ameisenlöwe (tiếng Đức), maurløve (tiếng Na Uy), mierenleeuw (tiếng Hà Lan), mierleeu (tiếng Afrikaan), myreløve (tiếng Đan Mạch), myrlejon (tiếng Thụy Điển)
- Ngôn ngữ Slav: ví dụ mravkolev (tiếng Séc), mravkol'v (мравколъв, tiếng Bulgaria), mravlji lav (tiếng Serbia và tiếng Croatia), mrówkolew (tiếng Ba Lan), murav'iniy lev (муравьиный лев, tiếng Nga)
- Ngôn ngữ Baltic: ví dụ skudrulauva (tiếng Latvia), skruzdžių liūtas (tiếng Litva)
- Ngôn ngữ Phần: ví dụ muurahaisleijona (tiếng Phần Lan), sipelgalõvi (tiếng Estonia)
- Tiếng Albania: luani thnegslave
Các người Cherokee gọi cúc là Yahoola.
Trên tiếng Do Thái, cúc được gọi là arinamal, trong tiếng Ả Rập là asad al-naml, và trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là karınca arslanı. Các ngôn ngữ này cũng sử dụng thuật ngữ 'kiến sư tử' để chỉ cúc, nhưng từ này chỉ mới xuất hiện gần đây và chịu ảnh hưởng từ các nước phương Tây.
Các tên khoa học của các phân bộ, siêu họ, họ, chi của loài côn trùng này cũng có nghĩa là 'kiến sư tử'. Từ này có nguồn gốc từ hai từ tiếng Hy Lạp cổ là léon (sư tử) và mýrmex (kiến), được dịch lại là 'kiến sư tử'.
Ở Hungary, cúc được gọi là hangyaleső, có nghĩa là 'kẻ mai phục kiến'. Bên ngoài châu Âu, khái niệm 'kiến sư tử' không phải là tên gọi ban đầu của chúng.
Ngoài châu Âu, cúc có các tên gọi khác như 'đảo thoái ngưu', 'địa cổ ngưu', và 'nghĩ ngưu'. Ở Tây Nam Bắc Mỹ, cộng đồng người Tây Ban Nha sử dụng cái tên 'torito', có nghĩa là 'bò tót nhỏ'. Các tên khác ám chỉ hành vi và thói quen của chúng như 'aMbututu', 'undur-undur', 'kumhar', 'bingundha', và 'kuzhi-ana'.
Trong tiếng Triều Tiên, cúc được gọi là 'mã nghĩ quỷ thần' (螞蟻鬼神, 개미귀신, gaemigwisin, nghĩa là 'kiến càng quỷ') và cái lỗ cúc được gọi là 'mã nghĩ địa ngục' (螞蟻地獄, 개미지옥 gaemijiog, nghĩa là 'địa ngục kiến càng'). Từ này tương tự với phát âm tiếng Nhật là ari-jigoku (アリジゴク, 蟻地獄, nghĩ địa ngục). Đồng thời trong tiếng Nhật, 'địa ngục kiến càng' cũng được dùng để ám chỉ một người bị rơi xuống tình cảnh tuyệt vọng và sắp sửa gặp phải tai họa không tránh được. Trong tiếng Việt, chữ 'kiến sư tử' xuất hiện lần đầu trong từ điển Pháp-Việt của cụ Đào Duy Anh, đó là kết quả của việc dịch tên tiếng Pháp của loài này. Tên gọi 'cúc' hay 'cống' là tên gọi truyền thống trong dân gian, bắt nguồn từ việc con vật có hình dạng như cái cúc áo.
Trong một số ngôn ngữ, ấu trùng cúc và cúc trưởng thành có tên gọi khác nhau. Tỉ như tiếng Đức gọi cúc trưởng thành là {chuồn chuồn kim kiến (Ameisenjungfer); tiếng Phần Lan và tiếng Estonia dùng các chữ muurahaiskorento và sipelgakiillased với nghĩa tương tự. Tên tiếng Hà Lan của cúc trưởng thành là mierenleeuwjuffer ('kiến sư tử - chuồn chuồn kim'). Tên tiếng Nhật là 'bạc vũ phù du' (usuba-kagerou, ウスバカゲロウ, 薄羽蜉蝣, nghĩa là 'phù du cánh mỏng), tên tiếng Triều Tiên là Myeongju jamjari (명주잠자리, nghĩa là 'chuồn chuồn lụa'). Tất cả những tên này đều nhằm mô tả một số đặc điểm trong kiểu hình của cúc trưởng thành cũng như lối bay bay khá là vụng về của chúng, các đặc điểm này khác với nhiều loại côn trùng phổ biến trong tự nhiên.
Ấu trùng cúc cũng có một số biệt danh, most of which have no readily discernible etymology. Ở Bắc Mỹ chúng được gọi là North America 'doodlebug' (bọ nguệch ngoạc), ở Nam Phi là 'shuntie' và joerie (pronounced 'yoory'), ở Úc là 'devil-devil', ở Antigua và Barbuda là jampeepee, trong tiếng Waray-Waray là 'tambaboy', ở St Vincent và Grenadines là 'tortee' hay 'torty' (bắt nguồn từ chữ 'tortoise' nghĩa là 'rùa') và chanchito ở Costa Rica.
Chú thích
- Botz, Jason T.; Loudon, Catherine; Barger, J. Bradley; Olafsen, Jeffrey S. & Steeples, Don W. (2003): Effects of slope and particle size on ant locomotion: Implications for choice of substrate by antlions. Journal of the Kansas Entomological Society 76(3): 426-435 abstract
- Engel, Michael S. & Grimaldi, David A. (2007): The neuropterid fauna of Dominican and Mexican amber (Neuropterida, Megaloptera, Neuroptera). American Museum Novitates 3587: 1-58. PDF fulltext
- Haaramo, Mikko (2008): Mikko's Phylogeny Archive: Neuroptera. Version of 2008-MAR-11. Truy cập 2008-APR-27.
- Spahn, Mark & Hadamitzky, Wolfgang (2003): The Kanji Dictionary. Tuttle.ISBN 0-8048-2058-9
- Swanson, Mark (2007): The Antlion Pit - 'Antlion' in the World's Languages. Truy cập 2008-MAY-04.
Trang ngoài
- Glenurus gratus trên trang Web Động vật Đặc sắc của UF / IFAS