Nhóm ngôn ngữ Việt
| |
---|---|
Phân bố địa lý | Đông Dương |
Phân loại ngôn ngữ học | Nam Á
|
Tiền ngôn ngữ | Việt-Chứt nguyên thủy |
Ngữ ngành con |
|
Glottolog: | viet1250 |
Nhóm ngôn ngữ Việt |
Nhóm ngôn ngữ tiếng Việt hay còn gọi là Nhóm ngôn ngữ Việt-Chứt thuộc ngữ hệ Nam Á. Trước đây, Nhóm ngôn ngữ này được biết đến với các tên như Việt-Mường, Annam-Muong, Vietnamuong, nhưng hiện nay các tên gọi này chủ yếu chỉ phân nhánh của Nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, bao gồm tiếng Việt và tiếng Mường.
Tiếng Việt hiện nay chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tiếng Trung Quốc, nhất là về từ vựng và hệ thống thanh điệu. Từ Hán-Việt chiếm khoảng 30-60% vốn từ vựng tiếng Việt, không tính các từ mượn trực tiếp từ Trung Quốc.
Nguồn gốc
Nguồn gốc của Nhóm ngôn ngữ tiếng Việt thường được cho là bắt nguồn từ Bắc Bộ. Tuy nhiên, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Theo Chamberlain James R., dựa trên sự đa dạng ngôn ngữ, Nhóm ngôn ngữ Việt có thể xuất phát từ khu vực Bolikhamsai, Khammouane ở Lào và Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình ở Việt Nam hiện nay. Lịch sử của Nhóm ngôn ngữ Việt được ước lượng từ 2.500-2.000 năm (Chamberlain 1998); 00 năm (Peiros 2004); hoặc khoảng 3.000 năm (Mark 2020). Tuy nhiên, khảo cổ học đã chứng minh rằng trước thời Đông Sơn, cư dân châu thổ sông Hồng chủ yếu là người Nam Á: dữ liệu di truyền từ khu mộ Mán Bạc thuộc văn hóa Phùng Nguyên (1.800 TCN) rất gần với người nói tiếng Nam Á hiện đại; ngược lại, 'di truyền lai hợp' từ di chỉ Núi Nấp thuộc văn hóa Đông Sơn có liên hệ với 'người Đài từ Trung Quốc, người nói tiếng Tai-Kadai từ Thái Lan, và người nói tiếng Nam Á từ Việt Nam, bao gồm cả người Việt'; vì vậy, 'con đường di cư của Vietic có thể là từ đồng bằng sông Hồng xuống phía nam, không phải lên phía bắc. Sự đa dạng ngôn ngữ ở phía nam cần được giải thích thêm.'
Tiếng Việt
Tiếng Việt, được công nhận là một ngôn ngữ Nam Á vào giữa thế kỷ XIX, có nhiều bằng chứng rõ ràng. Hiện tại, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm tiết, tương tự như tiếng Quảng Đông hay tiếng Thái, và đã mất nhiều đặc điểm âm vị của ngôn ngữ Nam Á nguyên thủy. Trong suốt lịch sử, tiếng Việt đã tiếp thu nhiều từ vựng từ tiếng Hán và các tiếng Thái. Sự tiếp xúc ngôn ngữ kéo dài này dẫn đến khó khăn trong phân loại tiếng Việt. Mặc dù có những nhà nghiên cứu không đồng ý phân loại tiếng Việt cùng nhóm với tiếng Khmer, giới chuyên gia hiện nay thường coi phân loại Môn-Khmer là chính thống.
Chamberlain (1998) cho rằng người Tai ban đầu cư trú ở đồng bằng sông Hồng, trong khi người nói tiếng Việt di cư từ vùng Bắc Trung Bộ vào giữa thế kỷ VII - IX CN. Vùng Bắc Trung Bộ là nơi có nhiều phương ngữ Việt bảo thủ về âm vị. Do đó, nơi phát tích của người Việt và tổ tiên Việt-Mường là phía nam sông Hồng.
Ferlus (2009) chỉ ra rằng các phát minh đặc trưng của văn hóa Đông Sơn như chày, chèo và chõ dùng để đồ xôi tương ứng với các đổi mới từ vựng trong nhánh Bắc Vietic (Việt–Mường) và Trung Vietic (Cuối-Chăm). Các danh từ mới cho các phát minh này xuất phát từ động từ gốc thay vì từ mượn. Sự phân bố hiện tại của Bắc Vietic cũng khớp với khu vực văn hóa Đông Sơn. Ferlus kết luận rằng người Bắc Vietic (Việt-Mường) là hậu duệ trực tiếp của người Đông Sơn, cư trú ở phía nam đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ từ thiên niên kỷ 1 TCN.
John Phan (2013, 2016) cho rằng một ngôn ngữ gọi là 'Hán ngữ trung cổ An Nam' từng tồn tại ở thung lũng sông Hồng và sau này hòa nhập vào tiếng Việt-Mường nguyên thủy. Tiếng Hán trung cổ An Nam là một phần của nhóm phương ngữ tiếng Hán trung cổ vùng tây nam Trung Quốc, sau này phân hóa thành các tiếng như Hán Ngõa Hương, patois Cửu Đô Thổ Thoại, Tiếng Bình phương nam và các phương ngữ tiếng Tương (như Tương Hương, Lô Khê, Kỳ Đông, và Tuyền Châu). Phan (2013) liệt kê ba loại từ Hán-Việt chính được vay mượn trong các thời kỳ khác nhau:
- Hán-Việt giai đoạn sớm (Nhà Hán, khoảng thế kỷ 1 CN và Đông Tấn, khoảng thế kỷ 4 CN)
- Hán-Việt giai đoạn muộn (Nhà Đường)
- Hán-Việt giai đoạn gần đây (Nhà Minh và hậu-Minh)
Phân bố
Chamberlain (1998) liệt kê các khu vực tại Lào nơi có người nói tiếng thuộc nhánh Việt như sau:
- Nguồn: Ban Pak Phanang, mường Bualapha, tỉnh Khammouane; một số cư trú ở Việt Nam
- Liha, Phong (Chăm), và Toum: mường Khamkeuth; có thể nguồn gốc từ vùng biên giới bắc Nghệ An/Khamkeut
- Ahoe: nguồn gốc từ Na Tane thuộc mường Nakai, và thôn Ban Na Va thuộc mường Khamkeut; trong chiến tranh đã di cư đến mường Hinboun, hiện tái định cư tại Nakai Tay (39 hộ) và Sop Hia (20 hộ) trên Cao nguyên Nakai
- Thavưng (phương ngữ Ahao và Ahlao): nhiều thôn làng quanh Lak Xao; có thể nguồn gốc từ vùng Na Heuang
- Chứt: Ban Na Phao và Tha Sang, mường Boualapha; một số khác có thể sống ở Pha Song, Vang Nyao, Takaa; nguồn gốc từ Hin Namno và Việt Nam
- Atel: huyện Tha Meuang bên sông Nam Sot (hầu hết là đồng bào người Malang); nguồn gốc từ vùng Houay Kanil
- Thémarou: Vang Chang bên sông Nam Theun; Ban Soek gần sông Nam Noy
- Makang: Na Kadok, mường Khamkeut (hầu hết là đồng bào người Saek); nguồn gốc từ vùng Thượng Sot
- Malang: Tha Meuang bên sông Nam Sot
- 'Salang': Ban Xe Neua, mường Boualapha
- Atop: Na Thone, mường Khamkeut (hầu hết là đồng bào người Tai Theng); nguồn gốc từ vùng Thượng Sot
- Mlengbrou: cạnh sông Nam One; sau này di cư đến mường Yommalath bên kia Núi Ak, hiện sống ở Ban Sang, mường Yommalath (hầu hết là đồng bào người Yooy)
- Kri: Ban Maka
Tại Việt Nam, một số tộc người miền núi nói tiếng Vietic như Arem, Rục, Maliêng và Mày đã được tái định cư ở Cu Nhái (phía tây tỉnh Quảng Bình hoặc phía tây nam huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). Dân tộc Sách cũng có mặt trên lãnh thổ Việt Nam.
Bảng dưới đây mô tả lối sống của các nhóm dân tộc Vietic. Khác với các nhóm dân tộc Tai lân cận, nhiều nhóm Vietic không áp dụng kỹ thuật canh tác lúa nước:
Lối sống | Nhóm Vietic |
---|---|
Du mục hái lượm theo bộ lạc | Atel, Thémarou, Mlengbrou, (Cheut?) |
Ban đầu là những nhà buôn, nhưng sau càng dựa vào lối canh tác đốt rừng làm rẫy | Arao, Maleng, Malang, Makang, Tơe, Ahoe, Phóng |
Canh tác kiểu đốt rừng làm rẫy, cứ 2–3 năm lại luân phiên thay làng | Kri |
Định canh ruộng nước lẫn đốt rừng làm rẫy | Ahao, Ahlao, Liha, Phong (Chăm), Toum |
Ngôn ngữ
Khám phá tiếng Việt như một ngôn ngữ thuộc nhóm Môn-Khmer, với hệ thống thanh điệu phản ánh các đặc điểm phi thanh điệu của các ngôn ngữ còn lại trong ngữ hệ, được xem là bước tiến quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử. Nhóm ngôn ngữ Việt thể hiện một phạm vi loại hình từ kiểu Trung Quốc hoặc Thái đến kiểu Môn-Khmer điển hình, bao gồm hệ thống thanh điệu phức tạp và tạo âm đa dạng, như kiểu âm tiết CVC hoặc CCVC, đơn âm tiết, đa âm tiết, và hình thái đơn lập hay kết hợp.
- Tiếng Arem: Ngôn ngữ này thiếu âm tính hà hơi phổ biến trong các ngôn ngữ Việt, nhưng lại có phụ âm cuối thanh hầu hóa.
- Tiếng Cuối: Phổ biến ở Lào và Thổ ở Việt Nam.
- Tiếng Aheu (Thavưng): Phân biệt giữa âm thường và âm hà hơi kèm phụ âm cuối thanh hầu hóa, tương tự như các ngôn ngữ Pear, tuy nhiên thanh hầu hóa xảy ra ở nguyên âm.
- Tiếng Rục, Sách, Mày và Chứt: Một nhóm phương ngữ với hệ thống thanh điệu bốn âm vực, phân biệt theo cao độ giống như tiếng Aheu.
- Tiếng Maleng (Bo, Pakatan): Có hệ thống thanh điệu tương tự như tiếng Rục, Sách.
- Tiếng Tày Poọng, Tày Hung, Tày Tum, Khong-Kheng.
- Việt - Mường: Tiếng Việt và Tiếng Mường chia sẻ 75% từ vựng cơ bản và hệ thống âm vực 5 - 6 mức độ. Hai ngôn ngữ này có các đặc điểm chung như ba thanh thấp và ba thanh cao tương ứng với phụ âm đầu vô thanh và hữu thanh trong ngôn ngữ tổ tiên, phân tách tùy thuộc vào phụ âm cuối nguyên gốc: thanh điệu tương ứng với âm tiết mở hoặc phụ âm mũi cuối cùng; thanh tăng cao và giảm thấp tương ứng với âm tắc cuối cùng đã biến mất; thanh điệu đến âm xát cuối cùng cũng đã biến mất; và các thanh thanh hầu hóa đến phụ âm thanh hầu hóa cuối, đã phản thanh hầu hóa.
Phân loại
Sidwell (2021)
Paul Sidwell đề xuất sơ đồ phân loại sau đây, với các nhánh phân kì chính được liệt kê trước.
- Thavưng–Malieng: Kri, Maleng, Malieng, Ahao/Ahlao, Thavung
- Chứt: Arem, Sách, Rục, Mày
- Phóng–Liha (Pong–Toum): Phong, Toum, Liha
- Cuối–Thổ: Cuối, Thổ
- Việt–Mường: Việt, Mường, Nguồn
Nhóm Thavưng–Malieng bảo tồn nhiều đặc điểm âm vị và từ vựng cổ xưa, trong khi nhóm Chứt hòa trộn hai âm cuối *-r và *-l thành *-l giống như các ngôn ngữ phía bắc.
Chamberlain (2018)
Chamberlain (2018:9) áp dụng thuật ngữ Kri-Mol để chỉ nhánh Vietic, đồng thời phân chia thành hai nhánh chính: Mol-Toum và Nrong-Theun. Trong công trình của mình, Chamberlain (2018:12) đã đưa ra cấu trúc phân loại như sau.
- Kri-Mol
- Mol-Toum
- Việt-Mường
- Việt
- Mường, Nguồn
- Toum-Ruc
- Toum, Phóng, Liha
- Rục, Cheut, Mày, Sách, Malieng
- Việt-Mường
- Nrong-Theun
- Kri-Phoong
- Kri, Phoong
- Mlengbrou
- Ahlao-Atel
- Ahoe-Ahlao
- Ahoe
- Ahlao, Ahao
- Atel-Maleng
- Thémarou
- Atel, Atop, (Makang), Arao, Maleng, Malang, To-e (Pakata)
- Ahoe-Ahlao
- Kri-Phoong
Sidwell (2015)
Dựa trên các nghiên cứu so sánh của Ferlus (1982, 1992, 1997, 2001) và các khảo sát tiếng Mường gần đây của Phan (2012), Sidwell (2015) đã chỉ ra rằng tiếng Mường là nhóm cận ngành thuộc phân nhóm của nhóm Việt. Sidwell (2015) đã đề xuất một cấu trúc phân loại nội nhóm Vietic như sau.
Vietic
- Việt-Mường: Việt, Mường Muốt, Mường Nà bái, Mường Chỏi, và các phương ngữ khác.
- Pong-Toum: Đan Lai, Hung, Toum, Cuối, và những ngôn ngữ liên quan.
- Chứt
- Đông: Mã liềng, Maleng, Arem, Kri, Chứt (Mày, Rụt, Sách, Mụ Già), và các ngôn ngữ khác.
- Tây: Thavưng, Pakata, và những ngôn ngữ khác.
Chamberlain (2003)
Dựa trên phân loại của Chamberlain (2003:422), trích dẫn từ Sidwell (2009:145), cấu trúc phân loại này khác biệt so với các phân loại trước đó với một nhánh mới 'Nam' bao gồm ngôn ngữ Kri, được mô tả lần đầu tiên vào thời điểm đó.
- Vietic
- Bắc (Việt–Mường)
- Việt
- Mường (theo Phan (2012), Mường là nhánh cận ngành)
- Nguồn
- Tây Bắc (Cuối)
- Tây (Thavưng)
- Ahoe
- Ahao
- Ahlao
- Đông Nam (Chứt)
- Cheut
- Rục
- Sách
- Mày
- Malieng
- (Arem ?)
- (Kata)
- Tây Nam (Maleng)
- Atel
- Thémarou
- Arao
- Makang
- Malang
- Maleng
- Tơe
- Nam (Kri)
- Kri
- Phóng
- Mlengbrou
- Bắc (Việt–Mường)
So sánh các từ gốc tương đồng
Tài liệu về tiếng Rục, Thavưng và Thổ được thu thập từ SEAlang Projects.
Ngôn ngữ nguyên thủy (Proto-Vietic) |
Tiếng Việt | Tiếng Mường |
Tiếng Rục | Tiếng Thavưng | Tiếng Thổ (Cuối Chăm) |
---|---|---|---|---|---|
*b-ləːj | trời | blời/tlời | pləːj² | - | bləːj¹ |
*ɓaːlʔ | mái | bảl | ɓaːl³ | - | maːj³ |
*k-ceːt | chết | chít | kəciːt⁷ | cəːt⁷ | ceːt⁷ |
*ɗam | (số) năm | đăm/đằm | dam¹ | dam¹ | dam¹ |
*ʔiːt | ít | ít | ʔit⁷ | ʔiːt⁷ | ʔiːt⁷ |
*k-lɔːŋ | (bên) trong | tlong | klɔːŋ¹ | kʰəlɔːŋ¹/lɔːŋ¹ | klɒːŋ¹ |
*kʰɔːjʔ/*k-hɔːjʔ | khói | khỏi | kəhɔːj³ | kəhɔːj³ | kʰɒːj³ |
*kuːs/guːs | củi | cúi | kuːrʰ¹ | kuːjʰ¹ | kuːl⁶ |
*m-laɲ | nhanh/ lanh |
nhanh/ lanh |
laɲ¹ | - | læŋ¹ |
*muːs | mũi | mũi | muːlʰ¹ | muːjʰ¹ | muːl⁶ |
*-naŋʔ | nặng | nẵng | naŋ⁶ | nâ̰ŋ | naŋ³ |
*p-leːʔ | trái [quả] | plải/tlải | pəliː³ | pʰaləː³ | pleː³ |
*poːŋ | bông [hoa] | pông | - | poːŋ¹ | pɔːŋ¹ |
*pʰaː | pha (trộn) | pha | pʰaː¹ | - | pʰaː¹ |
*tʰəh | thở | thớ/sớ | - | tʰəː⁵ | |
*tɔh | đỏ | tó | tɔh¹ | tɔh¹ | - |
*tiː | đi | đi/ti | tiː² | tiː² | tiː² |
- Thanh điệu của tiếng Việt có nguồn gốc từ các âm vị cuối từ trong ngôn ngữ tổ tiên chung của nhóm Việt. Thanh sắc và nặng xuất hiện ở những từ kết thúc bằng âm tắc /*-p *-t *-c -k -ʔ/, thanh hỏi và ngã bắt nguồn từ âm /-h/ và /-s/, trong khi thanh ngang và huyền từ các trường hợp còn lại.
- Các cụm phụ âm đầu *k-l, *b-l và *p-l được bảo tồn trong nhiều ngôn ngữ. *k-l phát triển thành /ʈʂ~ʈ/ (viết là ‹tr›) trong tiếng Việt. *b-l và *p-l cũng chuyển thành ‹tr› trong các phương ngữ Trung và Nam Bộ, nhưng thường thành /z/ (viết là ‹gi›) trong phương ngữ Bắc Bộ (so sánh giời và trời, gio và tro, giầu và trầu, giai và trai). *k-l, *b-l và *p-l phát triển thành /tl/ trong tiếng Mường (một số phương ngữ giữ nguyên hoặc hợp nhất *b-l và *p-l).
- Hai âm bật hơi *pʰ và *kʰ chuyển thành /f/ ‹ph› và /x/ ‹kh› ở các phương ngữ Bắc Bộ, nhưng vẫn được bảo tồn phần nào trong các phương ngữ Trung Bộ, một số phương ngữ Nam Bộ và các ngôn ngữ khác.
Danh sách 12 con giáp
Michel Ferlus (1992, 2013) đã chỉ ra rằng tên của 12 con giáp trong lịch Khmer (cũng chính là nguồn gốc của 12 con giáp trong lịch Thái) được vay mượn từ một dạng Việt-Mường bảo thủ về mặt ngữ âm. Ferlus cho rằng 12 con giáp Khmer xuất phát từ một ngôn ngữ Việt-Mường (nhánh Bắc Vietic), không phải từ ngôn ngữ Nam Vietic, vì nguyên âm của từ 'rắn' m.saɲ trong tiếng Khmer cổ tương ứng với âm /a/ của Việt-Mường, không phải âm /i/ của Nam Vietic.
Con giáp | Tiếng Thái Lan | Tiếng Khmer IPA | Tiếng Khmer hiện đại | Tiếng Khmer kỳ Angkor | Tiếng Khmer cổ | Việt-Mường nguyên thủy | Tiếng Việt | Tiếng Mường | Tiếng Cuối | Tiếng Kri |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
鼠 Tý | Chuat (ชวด) | cuːt | jūt (ជូត) | ɟuot | ɟuot | *ɟuot | chuột | chuột /cuot⁸/ | - | - |
牛 Sửu | Chalu (ฉลู) | cʰlou | chlūv (ឆ្លូវ) | caluu | c.luː | *c.luː | trâu | tlu /tluː¹/ | kluː¹ | săluː² |
虎 Dần | Khan (ขาล) | kʰaːl | khāl (ខាល) | kʰaal | kʰa:l | *k.haːlˀ | khái | khảl /kʰaːl³/ | kʰaːl³ | - |
兔 Mão | Thɔ (เถาะ) | tʰɑh | thoḥ (ថោះ) | tʰɔh | tʰɔh | *tʰɔh | thỏ | thó /tʰɔː⁵/ | tʰɔː³ | - |
龍 Thìn | Marong (มะโรง) | roːŋ | roṅ (រោង) | marooŋ | m.roːŋ | *m.roːŋ | rồng | rồng /roːŋ²/ | - | roːŋ¹ |
蛇 Tỵ | Maseng (มะเส็ง) | mə̆saɲ | msāñ' (ម្សាញ់) | masaɲ | m.saɲ | *m.səɲˀ | rắn | thẳnh /tʰaɲ³/ | siŋ³ | - |
馬 Ngọ | Mamia (มะเมีย) | mə̆miː | mamī (មមី) | mamia | m.ŋɨa | *m.ŋǝːˀ | ngựa | ngữa /ŋɨa⁴/ | - | măŋəː⁴ |
羊 Mùi | Mamɛɛ (มะแม) | mə̆mɛː | mamæ (មមែ) | mamɛɛ | m.ɓɛː | *m.ɓɛːˀ | - | bẻ /ɓɛ:³/ | - | - |
猴 Thân | Wɔɔk (วอก) | vɔːk | vak (វក) | vɔɔk | vɔːk | *vɔːk | voọc | voọc /vɔːk⁸/ | vɔːk⁸ | - |
雞 Dậu | Rakaa (ระกา) | rə̆kaː | rakā (រកា) | rakaa | r.kaː | *r.kaː | gà | ca /kaː¹/ | kaː¹ | kaː¹ |
狗 Tuất | Jɔɔ (จอ) | cɑː | ca (ច) | cɔɔ | cɔː | *ʔ.cɔːˀ | chó | chỏ /cɔː³/ | cɔː³ | cɔː³ |
豬 Hợi | Kun (กุน) | kao/kol | kur (កុរ) | kur | kur | *kuːrˀ | cúi | củi /kuːj³/ | kuːl⁴ | kuːl⁴ |
Ghi chú
Thông tin bổ sung
- Alves, Mark J. (2020). “Ghi chú lịch sử về từ vựng Proto-Austroasiatic và Proto-Vietic trong tiếng Việt”. Tạp chí Ngôn ngữ học Đông Nam Á. 13 (2): xiii–xlv. hdl:10524/52472.
- Alves, Mark. 2020. Dữ liệu về từ nguyên và từ vay mượn trong tiếng Vietic.
- Alves, Mark J. 2016. Phân tích từ vựng Sino-Vietnamese sớm qua dữ liệu ngôn ngữ học, lịch sử, khảo cổ học và dân tộc học, trong Tạp chí Ngôn ngữ học Trung Quốc 9 (2016):264-295.
- Alves, Mark J. 2017. Nghiên cứu từ nguyên trong tiếng Việt với cơ sở dữ liệu và tài nguyên khác. Ngôn Ngữ Học Việt Nam, 30 Năm Đổi Mới và Phát Triển (Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học Quốc Tế), 183-211. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
- Alves, Mark J. (2003). Ruc và các ngôn ngữ Vietic nhỏ khác: Những liên kết ngôn ngữ giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ Mon-Khmer còn lại. Trong Tài liệu từ Hội nghị thường niên lần thứ bảy của Hội Ngôn ngữ học Đông Nam Á, biên tập bởi Karen L. Adams và cộng sự Tempe, Arizona, 3-19. Đại học Bang Arizona, Chương trình Nghiên cứu Đông Nam Á.
- Barker, M. E. (1977). Bài viết về Proto-Viet–Muong. Loạt tài liệu vi phim Vietnam publications, số VP70-62. Huntington Beach, Calif: Học viện Ngôn ngữ học mùa hè.
- Chamberlain, J.R. 2003. Lịch sử sinh thái không gian: một truyền thuyết du mục từ người Annamites và ý nghĩa của nó đối với bảo tồn đa dạng sinh học. Trong X. Jianchu và S. Mikesell, biên tập. Các cảnh quan đa dạng: Kỷ yếu Hội nghị MMSEA lần thứ III, 25–28 tháng Tám, 2002. Lijiand, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Trung tâm Đa dạng sinh học và Kiến thức bản địa. tr. 421–436.
- Miyake, Marc. 2014. Bằng chứng trắng và đen về lịch sử âm vị tiếng Việt.
- Miyake, Marc. 2014. Soni linguae capitis. (Phần 1, 2-4.)
- Miyake, Marc. 2014. Điều gì đang xảy ra với *-hɛːk?
- Miyake, Marc. 2013. Một chuyến tham quan 'gió'.
- Miyake, Marc. 2010. Các âm rhotic trong tiếng Mường.
- Miyake, Marc. 2010. Một bí ẩn lớn: liệu tiếng Việt có từng có âm thanh khuyết tật không?
- Nguyễn, Tài Cẩn. (1995). Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
- Pain, Frederick (2020). “'Giao Chỉ' (Jiaozhi 交趾) như một trung tâm phân phối các biến đổi của Trung Hoa Trung Cổ: Đối trọng trọng âm và hiện tượng âm thanh của nó”. Tạp chí Nghiên cứu Trung Hoa Tsing Hua. 50 (3): 356–437. doi:10.6503/THJCS.202009_50(3).0001.
- Peiros, Ilia J. 2004. Phân loại gen của các ngôn ngữ Austroasiatic. Moskva: Đại học Nhân văn Nhà nước Nga (luận án tiến sĩ).
- Trần Trí Dõi (2011). Một số vấn đề nghiên cứu so sánh - lịch sử nhóm ngôn ngữ Việt - Mường. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. ISBN 978-604-62-0471-8
- Sidwell, Paul (2009). Phân loại các ngôn ngữ Austroasiatic: lịch sử và trạng thái hiện tại. LINCOM studies in Asian linguistics, 76. Munich: Lincom Europa.
Các liên kết bên ngoài
- Kho dữ liệu Vietic của La Vaughn Hayes
- Dự án SEAlang: Nhóm Mon-Khmer. Nhánh Vietic
- Sidwell (2003)
- Các ngôn ngữ đang bị đe dọa ở Đông Nam Á
- http://projekt.ht.lu.se/rwaai RWAAI (Kho lưu trữ và không gian làm việc cho di sản vô hình Austroasiatic)
- http://hdl.handle.net/10050/00-0000-0000-0003-670D-C@view Các ngôn ngữ Vietic trong Thư viện lưu trữ số RWAAI
Ngữ hệ Nam Á |
---|
Ngôn ngữ tại Việt Nam |
---|
Các dân tộc tại Lào xếp theo nhóm ngôn ngữ |
---|