Những bài thơ tuyệt vời bằng tiếng Trung dù ngắn gọn nhưng mang đầy ý nghĩa sâu sắc. Thơ ca ở Trung Quốc đã có một lịch sử phát triển lâu đời và vẫn duy trì được nhiều tác phẩm kinh điển của các danh hào nổi tiếng. Khi nhắc đến thơ ca, không thể không nhắc đến Trung Quốc. Dưới đây là một số bài thơ tuyệt vời từ Trung Quốc mà trung tâm Mytour muốn giới thiệu tới quý vị.
1. Tuyển tập 8 bài thơ tình yêu hay bằng tiếng Trung
Tình yêu là đề tài gợi cảm hứng vô tận trong thơ ca, các nhà thơ hàng đầu trong việc sáng tác thể hiện tình cảm này tồn tại ở mọi quốc gia, đặc biệt là ở Trung Quốc.
1.1 断章 (Duànzhāng) / Đoạn Chương (Tạm dịch: Mảnh vỡ)
Đoạn Chương là một bài thơ miêu tả sự mất mát không thể diễn tả bằng lời của trái tim con người, và cảm xúc nội tâm đặc biệt này thường có thể đụng đến những mảnh vỡ nhỏ nhất trong trái tim con người.
Tác giả: Biện Chi Lâm (卞之琳 – Biàn Zhī Lín), nhà thơ hiện đại.
Tác phẩm:
你站在桥上看风景,
Nǐ zhàn zài qiáo shàng kàn fēngjǐng,
看风景人在楼上看你。
Kàn fēngjǐng rén zài lóu shàng kàn nǐ。
明月装饰了你的窗子,
Míngyuè zhuāngshìle nǐ de chuāngzi,
你装饰了别人的梦。
Nǐ zhuāngshìle biérén de mèng.
Dịch nghĩa:
Em đứng trên cầu ngắm cảnh,
Người đứng trên tầng cao ngắm cảnh lại ngắm em.
Ánh trăng tô điểm cửa sổ của em,
Em tô điểm giấc mơ của người khác.
Dịch thơ:
Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh,
Người đứng trên tầng cao ngắm phong cảnh lại nhìn em.
Ánh trăng sáng tô điểm cửa sổ phòng em,
Giấc mơ của người kia lại được em tô điểm.
(Nguồn: 108 bài thơ tình Trung Hoa (dịch), NXB Thuận Hóa, 1996)
1.2 Thu Phong Từ (Qiūfēng cí) / 秋风词
Thu Phong Từ là một mùa thu u buồn trong tình cảnh này khiến nhà thơ chịu khổ, cô đơn – Không muốn chia lìa và nỗi nhớ trong lòng khiến nhà thơ hối tiếc buổi đầu gặp gỡ.
Tác giả: Lý Bạch (李白 – Lǐ Bái), thời Thịnh Đường.
Công trình:
Thu gió sáng,
Qiūfēng qīng,
Thu dương minh.
Qiūyuè míng.
Lạc diệp tập hoàn tản,
Luòyè jù hái sàn,
Hàn á quỳ phục kinh.
Hán yā qī fù jīng.
Tương tư tương kiến biết hà nhật?
Xiāngsī xiāng jiàn zhī hé rì?
Thử thời thử dạ nan vị tình.
Cǐ shí cǐ yè nánwéiqíng.
Hán Việt:
Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lá rụng tụ lại rồi lại tán,
Con quạ lạnh sợ lại giật mình.
Nhớ nhau, gặp nhau biết ngày nào?
Đêm này đây khó lòng quên.
Dịch nghĩa:
Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Con quạ lạnh đậu lại bỗng hoảng hốt.
Nhớ nhau không biết ngày gặp?
Thời gian này đêm này khó lòng hối tiếc.
Dịch thơ:
Gió thu se lạnh,
Trăng thu thanh.
Lá rụng tụ lại rồi lại tán,
Con quạ lạnh sợ lại giật mình.
Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp?
Lúc này đêm ấy khó lòng quên.
(Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997)
1.3 卜算子 (Bosuànzi) / Bốc Toán Tử
Bốc Toán Tử là bài thơ kể về mối tình đôi lứa nam nữ, tình yêu sâu đậm, như nước chung một dòng sông.
Tác giả: Lý Chi Nghi (李之儀 – Lǐ Zhī Yí)
Công trình:
Ngã trú Trường Giang đầu,
Quân trú Trường Giang vĩ.
Nhật nhật tư quân bất kiến quân,
Cộng uống Trường Giang thủy.
1.4 我住长江头 (Wǒ zhù chángjiāng tóu) / Ngã trú Trường Giang đầu
Bài thơ nói về tình yêu sâu đậm giữa hai người, cùng uống chung nước sông Trường Giang.
Tác giả: Lý Chi Nghi (李之儀 – Lǐ Zhī Yí)
Công trình:
Dịch nghĩa:
Thiếp ngự đầu sông Trường Giang,
Chàng ngự cuối sông Trường Giang.
Ngày ngày nhớ chàng mà không gặp chàng,
Cùng uống nước sông Trường Giang.
Dòng sông này bao giờ ngừng chảy?
Nỗi hận này bao giờ mới chấm dứt?
Chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp,
Chắc chắn không làm nản lòng nhau.
Dịch thơ:
Nhà thiếp ở đầu dòng sông,
Nhà chàng ở cuối dòng sông.
Nước sông Trường Giang cùng uống chung,
Thiếu vắng chàng lòng thiếp khổ sầu.
Nước ấy khi nào ngừng chảy?
Nỗi hận này từ khi nào bớt đi?
Thiếp mong chàng như chàng thương thiếp,
Mối tình này không bao giờ thay đổi.
(Nguồn: Tác phẩm của Tống từ, Nguyễn Xuân Tảo, NXB Văn học, 1999)
1.4 白头吟 (Bái tóu yín) / Bạch Đầu Ngâm (Tạm dịch: Khúc ngâm đầu bạc)
Bài thơ này kể về một câu chuyện tình buồn giữa Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân thời Tây Hán. Một tình yêu vượt qua mọi khó khăn nhưng lại có một kết cục đau thương.
Tác giả: Trác Văn Quân (卓文君 – Zhuō Wén Jūn), thời Tây Hán.
Tác phẩm:
Trắng như tuyết trên núi,
Sáng như mặt trăng giữa mây.
Nghe rằng người có hai ý,
Nên đến để giải quyết.
Hôm nay gặp nhau uống rượu,
Ngày mai gặp nhau bên suối.
Dạo chơi trên cống nước,
Nước suối chảy về đông tây.
Hán Việt:
Nơi như núi tuyết trắng,
Thân như mặt trăng qua mây.
Văn quân có hai ý,
Do đó tới đây để giải quyết.
Hôm nay gặp nhau uống rượu,
Sáng mai gặp nhau bên dòng nước.
Tiếp tục đi trên đường mương,
Dòng nước chảy về hướng đông tây.
Dịch nghĩa:
Tuyết trắng trên đỉnh núi,
Sáng như trăng giữa mây.
Nghe đâu chàng có hai ý,
Thiếp quyết định chia tay.
Hôm nay sum vầy cùng chén rượu,
Sớm mai tiễn nhau bên sông.
Dạo bước trên dòng nước,
Nước mãi chảy từ đông sang tây.
Dịch thơ:
Trắng như tuyết trên núi,
Sáng như trăng giữa mây.
Nghe lòng chàng hai ý,
Thiếp đành đoạn tình này.
Hôm nay chén sum họp,
Đầu sông tiễn sớm mai.
Lững thững theo dòng nước,
Nước mãi chảy đông tây.
(Nguồn: Thivien.net)
1.5 玉楼春-春恨 (Yùlóu chūn – chūn hèn) / Ngọc Lâu Xuân – Xuân Hận
A poem of longing and separation in life, expressing the author's sorrow before life's impermanence, particularly after the Vu Lan Festival. The poem earnestly reflects on life's sincerity.
Tác giả: Yàn Shū (晏殊).
Tác phẩm:
Bên lề con đường dài, dương xanh,
Năm xuân bỏ lại dễ dàng người.
Trên đỉnh tháp, mộng mị tan hoang ngàn lần,
Dưới hoa, nhớ thương tháng ba mưa.
Vô tình chẳng giống như đắng lòng,
Một chút cũng thành ngàn vạn sợi.
Thiên hà đất cảnh có lúc hạn,
Chỉ có tương tư vô cùng chốn đó.
(Nguồn: Thivien.net)
Thơ trắng Yàn Thủ
Hán Việt:
Lục dương thảo trường bồng đình lộ,
Niên thiếu phao nhân dung dị qua.
Lâu đầu khô héo ngũ canh chung,
Hoa để chia ly tam nguyệt vũ.
Vô tình vô tự đa ái thê nhức,
Một thốn hoàn thành thiên vạn lũ.
Thiên nhai địa học bạn hữu cùng thì,
Chỉ hữu tương thương vô hạn xứ.
Dịch nghĩa:
Lục dương thảo trường bồng đình lộ,
Niên thiếu phao nhân dung dị qua.
Lâu đầu khô héo ngũ canh chung,
Hoa để chia ly tam nguyệt vũ.
Vô duyên bất tự tổn tình thương,
Một nỗi hoàn thành trăm vạn tơ.
Thiên hạ địa cảm hữu cùng kỳ,
Chỉ còn tương tư vô hạn nơi.
Dịch thơ:
Liễu xanh cỏ ngát hương ngoài lộ,
Tuổi trẻ ra đi đâu có gian nan.
Trên lầu lo âu suốt năm canh,
Ly biệt tháng ba hoa ướt rũ.
Vô duyên làm gì tật nào tình,
Một thước tơ lòng ngàn vạn mớ.
Chân trời mặt đất vẫn chia ngăn,
Chỉ có nhớ nhau không hạn chỗ.
(Nguồn: Bản dịch của dịch giả Nguyễn Đương Tịnh)
1.6 相思 (Xiāngsī) / Tương Tư
Tương Tư là bài thơ được sáng tác trong thời kỳ nhà Đường, nhấn mạnh về tình yêu bằng ngôn từ đơn giản, những câu hỏi tự nhiên mang đầy những tâm tư thầm lặng nhớ nhung.
Tác giả: Vương Duy (王维 – Wáng Wéi), đời Đường.
Tác phẩm:
Đậu hồng sinh Nam quốc,
Xuân lai phát kỉ chi?
Nguyện quân đa thái tiệp,
Thử vật tối tương tư!
Hán Việt:
Đậu hồng sinh nam quốc,
Xuân về nở kỷ chi.
Nguyện quân đa thái hiệt,
Thử vật tối tương tư.
Dịch thơ:
Nước nam sinh đậu đỏ,
Xuân về nở cành xinh.
Chàng ơi hái nhiều nhé,
Nhớ nhau tha thiết tình!
(Người dịch: Hải Đà)
1.7 红豆词 (Hóng dòu cí) / Hồng Đậu Từ
Toàn bài thơ là những cung bậc cảm xúc buồn xen lẫn cảm giác bất lực và xót xa. Những nỗi buồn cũ và mới tràn đến như một cơn bão dữ dội và tàn nhẫn. Hiện lên hình ảnh những đứa trẻ đáng thương, những người mắc bệnh tương tư không quan tâm đến việc ăn uống.
Tác giả: Tào Tuyết Cần (曹雪芹 – Cáo Xuě Qín), thời Thanh.
Tác phẩm:
Lệ không ngừng tương tư máu lệ ném hồng đậu
Mở không đủ xuân liễu xuân hoa đầy hoạch lâu
Ngủ không yên cửa sổ lụa gió mưa hoàng hôn sau
Không quên mới buồn cũ buồn
Nuốt không trôi ngọc hạt vàng sóng ngập họ
Nhìn không ngừng gương trong hoa dáng gầy
Mở không ra mày thầu ái không minh gác cửa không tay
Ờ!
Này! Chỉ như dải sương mù xanh không che núi xanh
Chảy không ngừng dòng nước lục yêu.
Hán Việt:
Tuyển tập không đủ, tương tư huyết lệ ném hồng đậu
Không hoàn toàn, xuân liễu xuân hoa đầy hoạch lâu
Ngủ không ổn định, cửa sổ lụa gió mưa hoàng hôn sau
Làm sao quên được nỗi buồn mới và cũ
Nhỏ không vào, ngọc trai vàng sóng biển ngập miệng
Nhìn không ngừng vào gương hoa nở gầy
Mở không ra, trán đầy tay để canh lậu
Nha!
Chiếc dây lụa: Cái núi không thể che giấu được
Lưu không ngừng nước xanh yêu thương.
Dịch nghĩa:
Rơi không ngừng, dòng lệ tương tư như những hạt đậu đỏ
Nở không ngừng, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son
Ngủ không yên, mưa gió ngoài màn song sau hoàng hôn
Quên không được, sầu mới lẫn sầu cũ
Nuốt không trôi, những hạt ngọc vàng miệng nhỏn nhao
Soi không hết, hình ảnh gầy gò trong gương hoa xuân
Đầu mày giương không mở
Canh khuya cứ tiếp diễn không sáng
A!
Chính như: Núi xanh nhỏ bé không thể che lấp
Nước xanh thẳm vẫn lênh đênh không ngừng.
Dịch thơ:
Vẫn chảy mãi lệ tương tư sâu đậm màu đỏ
Hoa, liễu buồn vẫn nở chốn lầu son,
Giấc ngủ không yên, mưa gió ngoài song cửa
Sầu thảm với sầu, tìm về cuối hoàng hôn
Nuốt không trôi, những lời vàng tiếng ngọc
Gương sáng soi khuôn mặt đã gầy
Mày chau lại, mong chóng qua cơn khó khăn
Ôi chao!
Núi xanh vẫn thấp thoáng không ngăn cản được
Biển xanh vẫn trôi mãi không dừng lại.
(Lạc Nhạn dịch)
1.8 相思曲 (Xiāngsī qū) / Tương Tư Khúc
Tương Tư Khúc là một bài thơ miêu tả cuộc sống thư sinh thanh nhàn của tác giả, đồng thời phản ánh những khó khăn của nhân dân thời nhà Đường.
Tác giả: Đới Thúc Luân (戴叔伦 – Dài Shū Lún), thời Đường.
Tác phẩm:
Cao lầu vững vằng đóng kín ánh trăng,
Tâm đoạn tiên lang, năm tháng cách biệt.
Tử tiêu hoành điếc tịch vô thanh,
Độc hướng Dao Tràng ngồi sầu cạn.
Ngư trầm nhạn diêu thiên nhai lộ,
Thử tín nhân gian biệt ly khổ.
Hận mãn nha trang phỉ thúy khâm,
Oán chệ kim sài phượng hoàng cố.
Tỉnh thâm lộ lỗ gỉng đoạn,
Y y phù thuý tình nhật hoãn.
Tương đao trác thuỷ thuỷ phục liên,
Huy nhãt cát tình tình bất đoạn.
Lạc hồng loạn trục đông lưu thuỷ,
Nhất điểm phương tâm vi quân tử.
Tiệt thân nguyện tác võ sơn vân,
Phi nhập tiên lang mộng hồn lý.
Hán Việt:
Đêm cao trăng rọi rực như bạc,
Xa xôi năm tháng chàng cách đắc.
Tiếng sáo lặng tận đáy không thanh,
Một mình nhìn cửa ngọc tiếc nuối.
Chim hải âu bay lượn nơi bể biển,
Biệt ly vẫn nhớ đến điều khổ đau.
Nỗi oán tương tư giường chiếu mất thúy,
Nỗi oán nhuộm phượng hoàng dầu son.
Giọt lệ sầu đọng giữa lư khô,
Ngày dài tương tư, lòng chẳng nhẹ.
Vàng đao chém nước nước vẫn liên kết,
Lưỡi gươm cắt tình tình chưa cạn.
Hồng rụng theo dòng nước lạc bước,
Mảnh tình son vẫn vì người mà phai nhạt.
Lòng thân nguyện làm Vu Sơn mây,
Bay vào giấc mộng hồn chàng.
Dịch nghĩa:
Cao lầu trùng trùng che ánh trăng,
Năm dài cách biệt nỗi lòng buồn.
Sáo tĩnh lặng, vô thanh một bên,
Nhìn cửa ngọc, một mình u hoài.
Chim trời, cá lặn vẫn bay nổi,
Biệt ly, vẫn khổ không nhận thư.
Giường chăn, oán giận, phí thúy tiền,
Kim thoa, phượng hoàng bẻ gãy mối thề.
Lòng tâm, giấc mơ, cảnh lư sâu,
Yêu hoãn ngày nhìn những nghĩa tương tư.
Đao thủy, chém với nước phục liên,
Cát tình, chẳng cạn nỗi đắn đo.
Hồng lạc, lưu thủy theo dòng nước,
Phương tâm, vị quân, hơn một điểm.
Tử tuyệt thân, Vu Sơn sáng rực,
Phi tiên mộng, hồn chàng nắng tàn.
Dịch thơ:
Lầu cao trăng vẫn che khuất
Năm xa cách, lòng đau buồn thầm
Sáo tĩnh lặng không nghe tiếng
Một mình buồn ngóng xa lối cửa ngọc
Chân trời chim bay cá lặn
Thương nhớ nỗi biệt ly chẳng thư về
Oán giận chăn chặn, đôi phí thúy
Kim thoa đứt gãy lời thề còn vương
Đáy giếng nước, mảnh sâu ngắn ngủi
Xiêm y buồn, người chẳng trở lại
Dùng đao chém nước, nước vẫn chung lì
Cầm kéo cắt đứt tình vẫn không cạn
Hồng lạc theo dòng nước vạn năm
Tấm tình này vì người mà tan vỡ
Nguyện làm mây núi Vu Sơn
Bay vào giấc mộng hồn người yêu.
2. Bài thơ Trung Quốc ý nghĩa về cuộc sống
2.1 观田家 (Guān tiánjiā) / Quan Điền Gia (Tạm dịch: Quan sát gia đình nông dân)
Đây là một bài thơ ngắn mô tả cuộc sống của một gia đình nông dân thời xưa. Văn phong của thơ giản dị, không chạm khắc sâu nhưng vẫn thể hiện được nỗi khổ của nhân dân thời bấy giờ.
Tác giả: Vi Ứng Vật (韋應物 – Wéi Yìng Wù)
Tác phẩm:
Mưa nhỏ tươi mới trên nhiều loài hoa,
Một tiếng sấm đầu tiên kinh người đầu xuân.
Gia đình nông dân có vài ngày rảnh?
Bắt đầu cày cấy từ đây.
Người trai con gái đều ở ngoài cánh đồng,
Sân vườn cũng dần được sắp xếp.
Trở về, cảnh vật thường tĩnh yên,
Uống nước suối ở bên phía tây.
Không khổ không tự than,
Cảm thấy may mắn từ mưa phùn.
Thương lạm không có thóc lúa để dự trữ,
Công việc vẫn chưa xong.
Ngưỡng mộ những người không cày cấy,
Ăn lương ra khỏi cổng làng.
Hán Việt:
Vi ứng chúng hoa mới xinh,
Nhất lôi kinh trập bắt đầu.
Điền gia mấy ngày nhàn?
Canh trồng từ đây bắt đầu.
Đinh tráng gồm ở ngoại,
Sân phố diệc tựu lý.
Qui lai cảnh thường anh,
Ức độc tây giản thuỷ.
Cơ cù bất tự khổ,
Cao trạch thả vi hỉ.
Thương lẫm vô túc trừ,
Dao dịch do vị dĩ.
Phương tàm bất canh giả,
Lộc thực xuất lư lý.
Dịch nghĩa:
Mưa nhỏ làm cho mọi loài cỏ nảy mầm mới,
Một tiếng sấm chớp bắt đầu kinh ngạc.
Nhà nông có bao nhiêu ngày rảnh rỗi?
Giờ đây bắt đầu cày đất và gieo hạt ngay khi thời tiết bắt đầu.
Người lớn khỏe mạnh đều ra đồng,
Ruộng vườn đều được chăm sóc.
Thường khi trở về nhà khi mặt trời tắt,
Bê, nghé uống nước ở suối phía tây.
Không thấy khổ khi đói bụng hay mệt mỏi,
Chịu mưa ướt để đất được thấm nhuần là điều vui.
Trong kho không có thóc lúa gì cả,
Làm để trả thuế cho quan lại và ăn cho chủ đất vẫn chưa đủ.
Thấy điều này mới thấy xấu hổ với kẻ không làm ruộng như ta,
Được bổng lộc và miếng ăn do làng xóm cung ứng.
Dịch thơ:
Vừa có mưa nhỏ, cỏ mọc mầm lúa chen,
Tiếng sấm chớp đầu tiên đã làm mình ngạc nhiên.
Ngày nào nhà nông được rảnh rỗi?
Giờ bắt đầu cày cấy và gieo hạt ngay khi thời tiết đã bắt đầu.
Người đàn ông, phụ nữ khỏe mạnh đều ra đồng,
Vườn, ruộng đều được chăm sóc miệt mài.
Thường khi trở về nhà khi hoàng hôn buông xuống,
Nghé, bê uống nước tại suối về phía tây.
Không thấy khổ khi đói hay mệt mỏi,
Chịu mưa để đất được ẩm ướt là điều vui.
Trong kho không còn thóc lúa gì,
Phải trả thuế lại không đủ, khó khăn mãi.
Thấy điều này mới xấu hổ với kẻ không làm ruộng như chúng ta,
Được bổng lộc và miếng cơm do làng xã cung ứng.
(Nguồn: Thivien.net)
2.2 山居秋暝 (Shānjū qiū míng) / Sơn Cư Thu Minh
Sơn Cư Thu Minh là bài thơ mô tả phong cảnh tuyệt đẹp của làng núi và những phong tục bình dị của người dân miền núi vào đêm sau cơn mưa đầu thu trong lành, thể hiện tình yêu sâu sắc của tác giả dành cho thiên nhiên, cảnh vật, làng quê và sự hài lòng khi sống yên bình.
Tác giả: Vương Duy (王维 – Wáng Wéi)
Tác phẩm:
山中新雨之后,
Shānzhōng xīn yǔ zhī hòu,
天气晚来秋。
Tiānqì wǎn lái qiū.
明月照在松间,
Míngyuè zhào zài sōng jiān,
清泉从石上流过。
Qīngquán cóng shí shàng liúguò.
竹林中传来归家的妇女声音,
Zhú lín zhōng chuán lái guī jiā de fùnǚ shēngyīn,
荷花在渔船旁摇曳。
Héhuā zài yú chuán páng yáo yè.
春天里随意散落的芳香,
Chūntiān lǐ suíyì sànlò de fāngxiāng,
王孙可以自由停留。
Wángsūn kěyǐ zìyóu tíngliú.
Hán Việt:
Không sơn tân vũ hậu,
Thiên khí vãn lai thu.
Minh nguyệt tùng gian chiếu,
Thanh tuyền thạch thượng lưu.
Trúc huyên quy hoán nữ,
Liên động há ngư chu.
Tùy ý xuân phương yết,
Vương tôn tự khả lưu.
Dịch nghĩa:
Ngọn núi vắng sau cơn mưa
Thời tiết ban đêm đã là thu rồi
Ánh trăng sáng chiếu qua rừng cây tùng
Suối nước xanh chảy trên đá
Nghe có tiếng trúc xào xạc mấy cô đi giặt áo về
Tiếng lá sen xao động có người hạ thuyền xuống
Tùy ý, hương xuân đã hết
Các vương tôn muốn ở lại thì tự nhiên.
Dịch thơ:
Núi vắng cơn mưa tan
Chiều thu bóng khuất tàn
Lá tùng trăng sáng rọi
Ghềnh đá suối xanh tràn.
Trúc vang hò thiếu nữ
Sen động tiếng thuyền nan
Tùy ý hương xuân tận
Vương tôn vẫn bàn hoàn.
(Nguồn: Thanh Vân Thi Tập)
2.3 野老歌 (Yě lǎo gē) / Dã Lão Ca (Tạm dịch: Bài hát về người nông dân già)
Bài thơ miêu tả cuộc sống của một người nông dân, chịu sự áp bức của thuế và sự tham lam của giới thượng lưu, với cuối cùng chỉ còn lại việc hái quả để sống qua ngày. Bài thơ phản ánh cuộc sống của người nông dân dưới thời kỳ bóc lột và những cuộc chiến tranh của tầng lớp thống trị, với một cách nhìn sâu sắc vào sự thực về xã hội xưa kia.
Tác giả: Trương Tịch (張籍 – Zhāng Jí), thời kỳ Trung Đường (766-827).
Work:
An elderly poor farmer lives in the mountains, cultivating three to four mu of mountain fields.
Lǎo nóngjiā pín zài shān zhù, gēngzhòng shāntián sānsì mǔ.
The sparse seedlings incur heavy taxes, unable to obtain food, entering the official granary and turning into soil.
Miáo shū shuì duō bùdé shí, shūrù guān cāng huà wéi tǔ.
At the end of the year, the hoe plows near the empty room, calling the child to climb the mountain and collect acorns.
Suìmù chú lí bàng kōng shì, hū er dēngshān shōu xiàng shí.
Xi Jiang Jiā guests have 100 pearls, and the dogs in the ship have been fed for a long time.
Xījiāng jiǎ kè zhū bǎi hú, chuán zhōng yǎng quǎn zhǎng shíròu.
Hán Việt:
Lão nông gia bần tại sơn trú,
Canh chủng sơn điền tam tứ mẫu.
Miêu sơ thuế đa bất đắc thực,
Thâu nhập quan thương hoá vi thổ.
Tuế mộ sừ lê bàng không thất,
Hô nhi đăng sơn thu tượng thực.
Tây Giang cổ khách châu bách hộc,
Thuyền trung dưỡng khuyển trường thực nhục.
Translation:
Ông lão ở núi nhà nghèo,
Gieo trồng đất núi được ba bốn mẫu.
Lúa ít thuế nặng không có lúa để ăn,
Gom về kho quan biến thành đất.
Năm cuối cày bừa bên phòng trống,
Ông gọi trẻ lên núi hái hạt dẻ về ăn.
Nhà buôn Tây Giang trữ báu trăm hộc,
Trên thuyền nuôi chó thường xuyên có thịt ăn.
Dịch thơ:
Ông lão nghèo sống trong vùng núi,
Cày cấy ba bốn mẫu đất hoang
Thuế nặng không lúa ăn
Gom về kho quan thành đất dư thừa
Cuối năm cày bừa dựa nhà vắng
Hạt dẻ rừng thay cơm
Nhà buôn trữ báu trăm hộc
Trên thuyền nuôi chó thịt hàng ngày.
(Nguồn: Thivien.net)
2.4 山中寡妇 (Shānzhōng guǎfù) / Sơn Trung Quả Phụ (Tạm dịch: Người đàn bà góa chồng ở trong núi)
Bài thơ này phản ánh kinh nghiệm thảm thương của những người lao động dưới sự bóc lột, áp bức tàn nhẫn của tầng lớp thống trị. Qua số phận bi thương của một nhân vật điển hình như bà góa trên núi, bài thơ đáp ứng bộ mặt của xã hội lúc bấy giờ, với những lời lẽ vô cùng đau xót và căm thù.
Tác giả: Đỗ Tuân Hạc (杜荀鶴 – Dù Xún Hè), thời Vãn Đường.
Tác phẩm:
Thân vì binh tử tự bảo mao,
Vải tơ, lông tóc, áo quần khô đen.
Sáp và cánh không còn được thuế,
Nông trang hoang phế sau còn trồng cây.
Lúc họ chọn rau dại và củ nấu chín,
Lát cắt cây sống đem lá và cháy.
Có thể núi sâu hơn nữa,
Cũng không còn phương cách tránh thuế.
Hán Việt:
Phu nhân bị binh tử tự bảo mao,
Ma trúc dĩ sam mẫn phát tiêu.
Tang giá phế lai vẫn nạp thuế,
Điền viên hoang hậu thượng chinh miêu.
Khiêu dã thái hòa căn chủ,
Xoắn cắt sinh trụ đới diệp thiêu.
Nhậm thị thâm sơn canh thâm sứ,
Cũng không có phương cách tránh chinh đao.
Dịch nghĩa:
Chồng hi sinh trong trận, một mình giữ gìn nếp nhà tranh
Áo vải chấm gai, đầu tóc vàng hoe
Việc nuôi sống bỏ hoang rồi, vẫn phải đóng thuế
Ruộng vườn hoang vu, cũng phải nộp thuế lúa gạo
Bữa ăn thường hái rau dại nấu cả rễ
Thiếu củi, cành tươi vừa chặt, để cả lá đốt
Dù vào núi sâu thế nào, càng sâu hơn nữa
Cũng không có phương cách nào trốn khỏi thuế phí đi phu.
Dịch thơ:
Chết chồng, bà giữ nếp nhà khô
Quần áo dính gai, mái tóc thô
Vườn ruộng bỏ hoang, vẫn phải đóng thuế
Rau cỏ rừng và rễ cho qua bữa
Củi lá tươi, cả đốt lò
Dù trong rừng sâu vắng vẻ
Phu phận thuế má cũng theo về.
(Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997)
2.5 春中田园作 (Chūn zhōng tiányuán zuò) / Xuân Trung Điền Viên Tác (Tạm dịch: Giữa xuân ở ruộng vườn)
This poem depicts the prosperity of spring and the happiness of farmers, revealing some characteristics of social life and human values during the early Tang Dynasty, while also showing the author's profound connection with nature.
Tác giả: Vương Duy (王维 – Wáng Wéi)
Tác phẩm:
On the rooftop, the spring doves coo,
By the village, apricot blossoms white.
Holding the axe, clearing far and wide,
Bearing the hoe, exploring spring’s veins.
Returning swallows recognize their old nests,
Old friends observe the new calendar.
At the feast, suddenly not in control,
Regretfully thinking of the distant traveler.
Hán Việt:
The snipe chirps on the roof in early spring,
White apricot blossoms flourish by the village.
Holding the axe, cutting far and wide,
Taking the hoe to explore the veins of springs.
Returning swallows recognize their old nests,
Old friends observe the new calendar.
With wine cup in hand, suddenly not drinking,
Regretting the distant traveler.
Dịch nghĩa:
The snipe chirps on the roof in early spring,
White apricot blossoms flourish by the village.
Holding the axe, cutting far and wide,
Taking the hoe to explore the veins of springs.
Returning swallows recognize their old nests,
Old friends observe the new calendar.
With wine cup in hand, suddenly not drinking,
Regretting the distant traveler.
Dịch thơ:
The snipe chirps on the roof,
White blossoms in the garden bloom.
The axe chops the branches, stretching far,
The hoe digs out the veins of springs.
The swallow returns to its old nest,
Looking at the new calendar.
Pouring wine but not drinking,
Thinking of the distant traveler.
(Source: Selected Tang Poetry – Volume I, Publishing House of Literature and Arts, 2009)
3. Tổng hợp các bài thơ nổi bật của Trung Quốc
3.1 静夜思 (Jìng yè sī) / Tĩnh Dạ Tứ – Lý Bạch (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)
Bài thơ này miêu tả tâm trạng của nhà thơ khi ngắm trăng trong đình vào một đêm mùa thu. Các bài thơ sử dụng ẩn dụ, lối tu từ khác nhau để diễn tả nỗi nhớ nhà, câu thơ tinh tế, đơn giản và vẫn mang sức quyến rũ vô hạn, luôn được truyền miệng rộng rãi.
Loại tác phẩm:
床前明月光,
Chuáng qián míng yuè guāng,
疑是地上霜。
Yí shì dì shàng shuāng.
举头望明月,
Jǔ tóu wàng míng yuè,
低头思故乡。
Dī tóu sī gù xiāng.
Phiên âm Hán-Việt:
Sàng trước minh nguyệt quang,
Nghi tị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Phiên dịch thơ:
Dưới ánh trăng sáng giữa đầu giường,
Ngỡ như mặt đất phủ một lớp sương.
Ngẩng đầu nhìn ánh trăng sáng,
Cúi đầu nhớ về cố hương.
(Tương Như dịch)
3.2 关雎 (Guān jū) / Quan thư: Thuộc Thư Kinh – bộ thơ ca đầu tiên của Trung Quốc)
Quan Thư là một bài thơ tình ca miêu tả tình yêu nam nữ. Với cách viết đẹp, sử dụng âm đôi và lặp từ tốt, làm nổi bật vẻ đẹp âm vị của bài thơ và sự sống động của các nhân vật và tượng thanh từ.
Loại tác phẩm:
关关雎鸠、
Guān guān jū jiū,
在河之洲。
Zài hé zhī zhōu.
窈窕淑女、
Yǎotiǎo shūnǚ,
君子好逑。
Jūnzǐ hǎo qiú.
Phong cách Hán Việt:
Hạt giống tri thư cưu,
Nơi hà chi châu.
Vẻ đẹp thục nữ,
Quân tử đáng mơ ước.
Giải nghĩa:
Hai con chim tri thư cưu hót như vọng nghe quan quan,
Ở trên mạn bên sông.
Người thục nữ sống thong dong,
Phải là những người tốt trong bậc quân tử (vua).
Thơ nghĩa:
Chim tri thư cưu ngợp tiếng hót
Trên mạn bên bờ sông
Như thiếu nữ dịu dàng
Xứng đôi với người quân tử.
(Đoạn Nguyên Sương dịch)
3.3 春望 (Chūn wàng) / Xuân Vọng – Đỗ Phủ
Bốn dòng đầu của bài thơ này miêu tả cảnh vật khốn khổ, bị phá hủy của Trường An vào mùa xuân trong thịnh vượng và suy tàn. Bốn dòng cuối của bài thơ viết về tình yêu thương của nhà thơ đối với gia đình và về nỗi buồn đầy bất hạnh của đất nước.
Tác phẩm:
国破山河在,
Guó pò shānhé zài,
城春草木深。
Chéng chūn cǎomù shēn.
感时花溅泪,
Gǎn shí huā jiàn lèi,
恨别鸟惊心。
Hèn bié niǎo jīng xīn.
烽火连三月,
Fēnghuǒ lián sān yuè,
家书抵万金。
Jiāshū dǐ wàn jīn.
白头搔更短,
Báitóu sāo gèng duǎn,
浑欲不胜簪。
Hún yù bùshèng zān.
Phong cách Hán Việt:
Quốc phá sơn hà vẫn còn,
Cảm thời hoa nước rớt lệ,
Hận biệt chim kinh tâm.
Phong hỏa liên ba tháng ngày,
Gia thư đổi vạn kim.
Bạch đầu xước tóc ngắn,
Hồn dục không thắng chốn.
Giải nghĩa:
Nước núi phá tan vẫn còn nguyên vẹn,
Thành phố mùa xuân rậm cây.
Cảm thời hoa rơi những giọt lệ,
Biệt ly đau lòng chim lặng thầm.
Ba tháng khói lửa ròng không tắt,
Thư từ gia đình, giá như vàng.
Gãi đầu tóc bạc mòn đi,
Dường như mọi thứ chẳng thể hoàn hảo.
Thơ nghĩa:
Nước đất tan hoang, sông núi vẫn còn,
Xuân thành cây cỏ mọc dày đặc.
Nhìn hoa dại rơi lệ, chim kêu hận biệt ly.
Khói lửa chiến trường liên ba tháng,
Thư nhận vạn ngân đã trao.
Tóc bạc như sương càng thưa,
E không đủ búi để cài chặt.
(Trương Văn Tú (Lãng Nhai) dịch)
3.4 黄鹤楼 (Huáng hè lóu) / Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu
Bài thơ này miêu tả vẻ đẹp của tháp Hoàng Hạc và là một tác phẩm hoài niệm về quá khứ. Tháp Hoàng Hạc đã tồn tại hàng ngàn năm. Trong bài thơ có những nét thơ mộng tả cảnh, viết về khung cảnh nhìn từ tháp Hoàng Hạc trong một ngày nắng đẹp. Từ đó phản ánh rõ cảm xúc khi hoàng hôn về, sông Diên Ba trở về nguyên thủy như ban đầu.
Tác phẩm:
昔人已乘黄鹤去,
Xī rén yǐ chéng huáng hè qù,
此地空余黄鹤楼。
Cǐ dì kōng yú huáng hè lóu.
黄鹤一去不复返,
Huáng hè yī qù bù fù fǎn,
白云千载空悠悠。
Bái yún qiān zài kōng yōu yōu.
晴川历历汉阳树,
Qíng chuān lì lì hàn yáng shù,
芳草萋萋鹦鹉洲。
Fāng cǎo qī qī yīng wǔ zhōu.
日暮乡关何处是,
Rì mù xiāng guān hé chǔ shì,
烟波江上使人愁。
Yān bō jiāng shàng shǐ rén chóu.
Phong cách Hán Việt:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Giải nghĩa thơ:
Hạc vàng ai cưỡi bay đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc Lâu vẫn còn vắng vẻ.
Hạc vàng một lần bay không quay lại,
Mây trắng ngàn năm cứ bay thong dong.
Sông Hán Dương thăm thẳm cây lá rợp,
Vùng núi Anh Vũ xanh tươi cỏ um.
Quê hương lúc hoàng hôn che khuất,
Trên sông sóng khói buồn thảm lòng người.
(Tản Đà dịch)
月夜 (Yuè yè) / Nguyệt Dạ – Đỗ Phủ
Bài thơ này thể hiện những suy nghĩ của người vợ đối với bản thân và cũng hiểu được những tâm lý của người yêu mình.
Đề tài:
Đêm nay trăng Phu Châu,
Khuê phòng chỉ riêng nhìn.
Tiếc thương đứa con gái bé nhỏ,
Chưa thể giải được ký ức Trường An.
Hương sương mây tóc ẩm ướt,
Ánh sáng trong veo cánh tay ngọc.
Bao giờ dựa vào màn ngủ mờ,
Đôi chiếu làn nước mắt đã khô.
Hán Việt:
Đêm nay trăng Phu Châu,
Khuê phòng chỉ riêng nhìn.
Tiếc thương đứa con gái bé nhỏ,
Chưa thể giải được ký ức Trường An.
Hương sương mây tóc ẩm ướt,
Ánh sáng trong veo cánh tay ngọc.
Bao giờ dựa vào màn ngủ mờ,
Đôi chiếu làn nước mắt đã khô.
Dịch thơ:
Châu Phu đêm nay trăng soi,
Buồng vắng theo dõi một mình.
Đoái thương thơ dại đầu xanh,
Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
Sương mùi thơm ướt tóc mái đầu,
Cánh tay ngọc trắng lạnh ánh sáng trong.
Bao giờ tựa vào màn ngủ mờ,
Gương soi chiếu bóng lệ dòng dòng khô.
(Tản Đà dịch)
3.6 思归 (sī guī) / Tư Quy – Vương Bột
Bài thơ miêu tả nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương cay đắng của tác giả. Nỗi nhớ quê hương là tình cảm chung của loài người. Dù là người lang thang, vô gia cư, nhập cư, thì xa quê vẫn nhớ quê hương cay đắng.
Tác phẩm:
长江悲已滞,
Chángjiāng bēi yǐ zhì,
万里念将归。
Wànlǐ niàn jiāng guī.
况属高风晚,
Kuàng shǔ gāo fēng wǎn,
山山黄叶飞。
Shān shān huángyèfēi.
Hán Việt:
Trường Giang bi dĩ trệ,
Vạn lý niệm tương quy.
Huống thuộc cao phong vãn,
Sơn sơn hoàng diệp phi.
Dịch nghĩa:
Nỗi thương đau đã lắng đọng trên sông Trường Giang,
Ở nơi xa muôn dặm mong nhớ lúc trở về.
Huống hồ đương lúc cuối thu,
Lá vàng tung bay trên núi non trùng điệp.
Dịch thơ:
Trường Giang sầu lắng trong lòng,
Đường xa muôn dặm nhớ mong ngày về.
Chiều buông gió lộng lê thê,
Lá vàng quanh núi bốn bề tung bay.
(Hải Đà dịch)
4. Những câu thơ đối hay bằng tiếng Trung
Trung Quốc từ truyền thống xa xưa đã luôn có tục lệ đối thơ qua lại, đây là phong tục tập quán nổi bật và có rất nhiều câu thơ đối được ghi chép lại và lưu truyền mãi cho đến hiện nay.
Câu điều:
碧 沼 芰 荷 mở cùng hoàng đế.
Bì zhǎo jì hé mở cùng dì.
绣 帏 鸾 凤 kết hợp cùng tấm lòng.
Xiù wéi luánfèng kết hợp tóng tâm.
Tiếng Hán Việt:
Bích chiểu kỳ hà mở rộng hoàng đế.
Tú vi loan phượng kết hợp đồng tâm.
Phiên dịch:
Ao biếc súng sen đồng chung rễ mọc.
Màn thêu phượng loan kết tấm lòng.
Câu điều:
莲 花 bóng bước vào nước thanh gương.
Liánhuā yǐng rù shuǐjīng jìng.
Trúc lá thơm nổi cùng chén vịt đồng tâm.
Zhú yè xiāng fú yīngwǔ bēi.
Tiếng Hán Việt:
Hoa sen ảnh chiếu vào gương thuỷ tinh.
Lá trúc hương vị toả phía bóng mây.
Phiên dịch:
Gương thuỷ tinh nhìn thấy hình ảnh hoa sen.
Chén anh vũ phát hương từ lá trúc.
Câu điều:
池 trên xanh hoa sen vung nét màu.
Chíshàng lǜ hé huī cǎi bǐ.
Trời xa trăng sáng nghiêng lông mày mới.
tiānbiān lǎng yuè yǎn xīn méi.
Tiếng Hán Việt:
Thượng trì lục hà huy cao bút.
Thiên biên lãng nguyệt yếu tân mĩ.
Phiên dịch:
Sen xanh trên cao thêm cảm hứng với bút.
Bên trời trăng sáng soi hàng mi.
Câu điều:
琴 琴 育 和 刚 月。
Qínsè yù hé gāng sì yuè.
熊 罴 入 梦 喜 三 更。
Xióng pí rùmèng xǐ sān gèng.
Tiếng Hán Việt:
Cầm sắt hạ hoà cương tứ nguyệt.
Hùng biến nhập mộng hỷ tam canh.
Phiên dịch:
Mới tháng tư cầm sắt hòa hợp.
Vui vẻ ba canh hùng biến vào giấc mơ.
Câu điều:
Mưa mai mây mù tạo nên liên kết tốt đẹp với bạn bè.
Hoa lựu từ từ tỏa sáng mới của nó.
Lựu hoa y thuỷ ánh tân trang.
Tiếng Hán Việt:
Mai vũ vân chu liên hảo hữu.
Lựu hoa y thuỷ ánh tân trang.
Phiên dịch:
Bên bạn tốt mưa mai mây cuốn.
Hoa lựu đẹp như trang sức xưa.
Câu điều:
Sách lá cỏ từ ngoài cửa sổ xanh.
Hoa phù dung hướng về trong đỏ.
Tiếng Hán Việt:
Thư đái thảo tầng song ngoại xanh lục.
Hoa phù dung hướng về trong đỏ.
Dịch giải nghĩa:
Sách mang cỏ đến phía ngoài bên cạnh dòng nước biếc.
Hoa phù dung hướng khách, tỏa sắc hồng.
Câu đối thơ:
Màu xuân chiếu sáng mái đài, một khúc cung tần, hoàng phượng vụt bay, lộ vẻ đẹp tím thanh.
Gió hương tinh khiết, chấm dứt câu thơ đan xen chữ hoa, chữ khắc, màu xanh dương, con rồng quyến rũ.
Hán Việt:
Xuân ánh chiếu đài, một khúc dao tử tiêu phi phượng thái.
Huệ phong thanh bảo sắt sổ hàng cẩm tự triện thanh cù.
Dịch giải nghĩa:
Xuân sắc chiếu dao đài, một khúc tiêu phi phượng đẹp.
Gió thơm trong tiếng sắt, vài hàng chữ gấm gửi rồng xanh.
Câu đối thơ:
烛 花 喜 并 榴 花 艳。
Zhú huā xǐ bìng liú huā yàn.
蒲 酒 欣 莲 巹 酒 斟。
Pú jiǔ xīn lián jǐn jiǔ zhēn.
Hán Việt:
Chúc hoa hỷ tịnh lựu hoa diệm.
Bồ tửu hân liên cẩn tửu châm.
Dịch giải nghĩa:
Hoa đuốc gần cạnh hoa lựu đẹp.
Rượu nho cùng với rượu cẩn mời.
Câu đối thơ:
蒲 酒 涟 馨 连 巾 酒。
Pú jiǔ lián xīn lián jǐn jiǔ.
烛 花 绚 彩 映 榴 花。
Zhú huā xuàn cǎi yìng liú huā.
Hán Việt:
Bồ tửu lưu hình liên cẩn tửu.
Chúc hoa huyền thái ánh lựu hoa.
Dịch nghĩa:
Rượu nho cùng rượu cẩn thơm ngát.
Hoa đuốc bên hoa lựu rực màu.
Câu đối:
菡 萏 枝 联 谐 绣 幕。
Hàn dàn zhī lián xié xiù mù.
鸳 鸯 翼 比 媚 将 台。
Yuānyāng yì bǐ mèi jiāng tái.
Hán Việt:
Hạm đạm chi liên hải thố mặc.
Uyên ương dực tỵ mỵ tương đài.
Dịch nghĩa:
Lotus roots entwined, curtains embroidered.
Lovebirds' wings unfold, a beautiful pavilion.
Câu đối:
酒 流 香 浮 蒲 酒 绿。
Jǐn jiǔ xiāng fú pú jiǔ lǜ.
烛 花 艳 映 烛 花 红。
Zhú huā yàn yìng zhú huā hóng.
Hán Việt:
Cẩn tửu hương phù bồ tửu lục.
Lựu hoa diễm ánh chúc hoa hồng.
Dịch nghĩa:
Rượu nho thơm giúp hương rượu cẩn.
Hoa lựu đẹp nhờ đuốc hoa hồng.
Câu đối:
杯 酣 暑 日 飞 鹦 鹉。
Bēi hān shǔ rì fēi yīngwǔ.
曲 奏 薰 风 引 凤 凰。
Qū zòu xūn fēng yǐn fènghuáng.
Hán Việt:
Bôi châm thử nhật phi anh vũ.
Khúc tấu huân phong dẫn phượng hoàng.
Dịch nghĩa:
Rượu mời ngày nóng anh vũ bay.
Khúc tấu nồm nam phượng hoàng lại.
Câu đối:
乐 奏 函 钟 谐 凤 侣。
Yuè zòu hán zhōng xié fèng lǚ.
诗 歌 南 国 叶 螽 斯。
Shīgē nánguó yè zhōng sī.
Hán Việt:
Nhạc tấu hàm chung hài phượng lữ.
Thi ca nam quốc diệp chung tư.
Dịch nghĩa:
Nhạc tấu hàm chung vui đàn phượng.
Thơ ca nam quốc lá chung tờ.
Câu đối:
盛 世 长 青 树。
Shèngshì cháng qīngshù.
百 年 不 老 松。
Bǎinián bù lǎosōng.
Hán Việt:
Thịnh vượng trong cảnh yên.
Bách niên không già tùng.
Dịch nghĩa:
Đời thịnh vẫn xanh tươi.
Trăm năm tùng vẫn không già.
Câu đối:
寿与山岭同老。
Shòu yǔ shānlǐng tóng lǎo.
福与海天共长。
Fú yǔ hǎitiān gòng zhǎng.
Hán Việt:
Thọ cùng núi non vẫn lão.
Phúc hợp với biển trời dài.
Dịch nghĩa:
Thọ lâu với đồi núi vẫn già.
Phúc kéo dài cùng biển trời.
Câu đối:
福似东海长流水。
Fú sì dōnghǎi cháng liúshuǐ.
寿比南山不老松。
Shòu bǐ nánshān bù lǎosōng.
Hán Việt:
Phúc tựa đông hải dài chảy nước.
Thọ như nam sơn không già tùng.
Dịch nghĩa:
Phúc như biển Đông, dòng chảy vô tận.
Thọ như non núi Nam, tùng mãi không già.
Câu đối:
凤凰枝上花如锦。
Fènghuáng zhī shàng huā rú jǐn.
松菊堂中人并年。
Sōng jú táng zhōng rén bìng nián.
Hán Việt:
Phượng hoàng trên cành hoa như vải nhung.
Song chúc trong nhà người hợp niên.
Dịch giải:
Trên cành hoa gấm Phượng Hoàng thẳng đứng.
Trong nhà người sống lâu cúc tùng xanh tốt.
Câu đối:
Tuổi thọ cao niên, cây tùng và hoa cúc cùng phát triển mạnh mẽ.
Thời gian gặp gỡ thịnh thế, hoa lan và cây nhài đều tươi tắn.
Hán Việt:
Niên thọ cao linh xuân tiết tịch mậu.
Thời thịnh trị, lan quế hiển vượng.
Dịch giải:
Thiên trao tuổi thọ, xuân huyên đều tốt.
Gặp thời thịnh thế, lan quế cùng thơm ngát.
Câu đối:
Đá bảo vươn cao nghìn tuổi mỗi ngày.
Cổ bách vây quanh bốn mươi vòng tròn trời.
Hán Việt:
Bàn dao rực rỡ, ngày mặt trời chiếu ba thiên niên.
Cổ bách tham chiếu bốn thiên tứ thập vi.
Dịch giải:
Bàn dao nắng rực, ba nghìn năm.
Ngàn cổ bách vươn cao, bốn mươi tuổi.
Đây là những bài thơ và câu đối hay bằng tiếng Trung mà chúng tôi thu thập và biên soạn, hy vọng chúng sẽ hữu ích cho quý vị. Xin cảm ơn quý vị đã dành thời gian để xem xét tài liệu của chúng tôi.