Cuộc chiến tranh chống Mỹ kéo dài suốt 21 năm đã kết thúc gần 45 năm trước. Trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhiều thanh niên đã phải đi ra chiến trường, có người hi sinh, có người may mắn sống sót về. Sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình, những người lính đó đã trở lại cuộc sống hàng ngày, đóng góp cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Mặc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, những anh bộ đội vẫn giữ nguyên phẩm chất cần cù, kiên trì. Đó chính là ý chí vững vàng của những người đã được rèn luyện trong quân đội. Mỗi người có cuộc sống và số phận riêng, nhưng chắc chắn những người trẻ trong thế hệ chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về cuộc chiến tranh và cuộc sống của họ sau chiến tranh. Trong “Những Kỷ Niệm Chiến Tranh”, độc giả sẽ được chứng kiến cuộc sống và suy nghĩ của những người lính qua lời kể của tác giả Vũ Công Chiến.
Năm 1971, Vũ Công Chiến gia nhập quân ngũ, phục vụ trong Tiểu Đoàn 52 thuộc Trung Đoàn Huấn Luyện Tăng Cường E59 của Bộ Tư Lệnh Thủ Đô. Năm 1972, ông được chuyển sang Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 968. Trong những năm tháng chiến đấu đó, ông đã kết bạn với nhiều đồng đội, để rồi hôm nay chúng ta được đọc về họ, về sự hi sinh và những giá trị quan trọng trong cuộc sống của người lính.
Những người viết “Những Kỷ Niệm Chiến Tranh” không phải là để gợi lại quá khứ hay để nhận sự đồng cảm của mọi người. Họ viết, trước hết là để tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh, sau đó là để người sống hôm nay thấy giá trị của cuộc chiến tranh, để nếu ai còn nghĩ về sự hy sinh của lớp lớp cha anh thì hãy sống một cuộc sống xứng đáng.
Trong “Những Kỷ Niệm Chiến Tranh”, Vũ Công Chiến không chỉ nói về những khó khăn mà ông và đồng đội phải trải qua trong chiến tranh. Thay vào đó, người đọc cảm nhận được tinh thần lạc quan của người lính qua những sinh hoạt hàng ngày hoặc những tình huống đầy hài hước. Mỗi câu chuyện để lại cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ, gợi lên niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
Ngày 30/4/1975
Dĩ nhiên, khi nói về những ngày hòa bình, ta không thể không nhắc đến ngày kết thúc chiến tranh. Đó là lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi lá cờ giải phóng được nâng cao trên Dinh Độc Lập, ghi dấu một dấu mốc quan trọng trong lịch sử, khi cả nước Việt Nam được thống nhất. Mỗi người đều có thể tưởng tượng được khung cảnh đó. Nhưng liệu bạn đã từng tự hỏi người lính ăn mừng như thế nào trong khoảnh khắc đó? Và nhiệm vụ tiếp theo của họ là gì? Niềm vui chiến thắng không chỉ là của riêng ai, ngay cả những người lính, họ ăn mừng trong trật tự, nhưng vẫn rất vui. Những giây phút đầu tiên sau khi giải phóng, lính được thảnh thơi nghỉ ngơi, kiểm tra những gì thu được từ quân địch. Nhiệm vụ của họ sẽ tiếp tục trong vài năm tới, chỉ khác điều là họ không còn phải lo sợ nguy hiểm như trước. Những anh bộ đội cụ Hồ, ngày hôm trước còn không dám mơ về một ngày sống sót, bây giờ đã có thể mơ ước và suy ngẫm về một tương lai hạnh phúc hơn...
Trong Chúng tôi thời hậu chiến, độc giả sẽ được trải nghiệm ký ức của Vũ Công Chiến về những trận đánh mà ông và đồng đội đã tham gia. Mỗi trận đều rất kịch tính và hấp dẫn, dù nhỏ hay lớn.
Cả tiểu đoàn tiếp tục tiến công chiếm lĩnh mọi vị trí từ cổng sân bay đến xã Trung Hòa. Trinh sát tiếp tục giám sát tình hình địch. Chúng tôi ẩn quân gần đơn vị vận tải có xe GMC. Đội hỏa lực của tiểu đoàn sẵn sàng chi viện cho chúng tôi, bởi cấp trên xác định đơn vị Kinh của đội Fulro sẽ là đơn vị mạnh nhất. Chúng tôi không đào hầm mà chỉ nằm sát đất. Ban đầu, tiểu đoàn quyết định tấn công trong đêm để giải cứu Ban chỉ huy trung đoàn. Cứu được cấp trên sớm chừng nào, tốt chừng ấy. Nhiệm vụ trinh sát vẫn không xác định được Sở chỉ huy của địch đặt ở đâu, nếu bắn bừa vào có thể gây tổn thương không cần thiết.
Trong những trận đánh đó, không ít người lính đã trở về không còn toàn vẹn, thậm chí là hi sinh. “Một đòn chém mất cả tai ác của Hà cũng không lành lặn, nhưng nếu không có nó, ta không được gọi là đàn ông”. Khó khăn không thể làm mất đi tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính. “Vui nhất là khi có thư của bạn gái đứa nào đó. Nghe rồi tha hồ mà tán láo các kiểu. Thế mà vui ra phết”. Cái “chất” của anh bộ đội cụ Hồ sẽ còn theo họ đến mãi sau này, khi đã về già ở cái tuổi gần đất xa trời.
Những ngày sau chiến tranh
“Mẹ ơi, con đã trở về!”
Đó là niềm ao ước, là lời nói mà mọi người mẹ đều ao ước được nghe sau khi chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên, không phải ai cũng có dịp như vậy, có những người trở về với sức khỏe tốt, có những người phải sống với thương tích suốt đời, có những người sẽ mãi mãi không bao giờ quay lại. Và rồi bao nhiêu bà mẹ đã phải khóc hết nước mắt. Nhưng chiến tranh chính là thế, họ phải chấp nhận giá phải trả cho hòa bình và độc lập của quốc gia, giá phải trả là những sinh mạng hy sinh. Hãy tưởng tượng xem trong số chúng ta có ai không cảm thấy đau lòng khi nghe câu “Tại sao các con trở về, trong khi con của tôi lại hy sinh?”
Hơn một triệu người đã hy sinh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, trong đó vẫn còn hơn ba trăm nghìn liệt sĩ chưa được tìm thấy hoặc chưa được chôn cất. Điều này có lẽ là bi kịch lớn nhất mà chiến tranh để lại cho những người còn sống. Có những căn hầm bị tấn công bởi một quả bom lớn, những người trong đó biến mất hoàn toàn, không thể nhận ra được xác của ai. Chỉ có thể gom lại và chôn cất. Nhiều người đã hy sinh trong khi đội đang hành quân, chỉ còn kịp chôn tạm và đánh dấu. Nhưng sau mùa mưa, quay lại thì không còn gì nữa.
Có những khoảnh khắc cuối cùng vô cùng ám ảnh, nếu không phải chính mắt chứng kiến, ta sẽ không thể hiểu được.
Hãy tưởng tượng, người thân của bạn đã hy sinh dũng cảm trong một trận đánh nào đó, trên một ngọn đồi, bên lề một khu rừng xa xôi, và trước khi đóng mắt, họ đã nhìn lên bầu trời xanh thẳm và gọi một tiếng “Mẹ ơi!”. Đó là âm thanh mà chúng tôi không ít lần chứng kiến khi đồng đội của chúng tôi hy sinh. Đó là sự thật. Hãy tưởng tượng như vậy để lòng bạn yên bình trước những mất mát không thể bù đắp khi không thể tìm thấy hài cốt người thân.
Những dòng này gợi lên trong tôi hình ảnh từ một đoạn trong phim Mùi cỏ cháy, trong những cảnh chiến trường ở Quảng Trị năm 1972. Chiếc “cối xay thịt người” đã nuốt chửng bao nhiêu chiến sĩ của chúng tôi. Đến tận bây giờ, khi viết những dòng này, tai tôi vẫn vẫn văng vẳng tiếng khóc thảm thiết của một chiến sĩ nào đó gọi “Mẹ ơi!” trong những giây cuối cùng trước khi rơi xuống.
Dù tương lai có ra sao, những người lính vẫn phải tiếp tục cuộc sống và hòa nhập vào cuộc sống bình thường. Vũ Công Chiến kể lại câu chuyện đời của từng người bạn mà ông biết, mỗi người có một số phận riêng, nhưng chung quy lại họ luôn có một niềm động viên chung là vượt qua khó khăn trong cuộc sống, đúng như tính cách của một “anh bộ đội cụ Hồ”.
Những người lính đào ngũ bị coi là “phản đồ” của Tổ quốc, họ không được coi trọng và không được hưởng chế độ sau chiến tranh. Tuy nhiên, sau khi đọc Chúng tôi thời hậu chiến, có lẽ bạn sẽ hiểu sâu hơn về những con người này. Tôi từng nghe ông bà kể về lính đào ngũ. Thời ấy, chính quyền đã sử dụng các biện pháp để khiến họ cảm thấy xấu hổ và mất danh dự, một phần để trừng phạt lính “tút” (đào ngũ), một phần để tuyên truyền cho người dân. Nhưng cho dù thế nào đi chăng nữa, chúng ta không nên quên những sai lầm trong quá khứ mà hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. Vì họ đã phải chịu đựng đủ và đã phải sống với những đau khổ hơn những người không mắc lỗi.
Những người lính đào ngũ không sợ chết, vì đã đến chiến trường rồi thì không còn thời gian để nghĩ đến cái chết nữa. Đó là chia sẻ chân thành từ Xướng, một lính “tút”.
Tao cũng trải qua nhiều năm chiến đấu như các mày. Nhưng tao không muốn tiếp tục. Đánh nhau mãi, không biết đến khi nào, quá mệt mỏi và chán nản. Vậy nên mới “tút”. Biết “tút” là một tội, nhưng phải chấp nhận bỏ phí tất cả những năm tháng chiến đấu và chịu cải tạo sau khi trở về nhà. Rồi sống như một người dân bình thường.
Cũng có những người lính gặp vấn đề tâm lý, nhưng anh Trọng, sau khi phải thực hiện mệnh lệnh bắn tù binh từ cấp trên. Dù vậy, tình đồng đội vẫn còn đó. Khi anh Trọng phải nhập ngũ lại và đi đến Tây Nguyên, anh vẫn theo dõi tin tức về đồng đội và trung đoàn cũ gần đó.
Vào mùa hè năm 1976, anh đã ghé thăm. Anh vẫn sợ ông Chèo, ông Mỵ nên không dám vào đơn vị, chỉ đợi ở ngoài rồi hỏi thăm. Khi gặp được người hỏi thăm, nghe tin Chiến đã vào học sĩ quan, anh cảm thấy rất buồn. Sau này biết đơn vị đã rời khỏi Pleiku, anh càng thêm buồn.
Quá khứ đã xa, những người lính ấy đã vượt qua những sai lầm và sự nhục nhã để tiếp tục cuộc sống. Có những người làm việc, có những người sống yên bình, bình an suốt đời. Với quan điểm của một người lính, Vũ Công Chiến rất tôn trọng đồng đội của mình, dù họ đã phạm sai lầm được coi là “tày đình”. Vì ông hiểu những khó khăn về cả tinh thần và vật chất mà những người lính phải đối mặt. Chiến tranh đã kết thúc, thậm chí cả những kẻ từng là địch ở trận trước khi buông súng, chúng ta cũng sẵn lòng tha thứ cho họ, vậy thì tại sao lại không thể bỏ qua những lỗi lầm của đồng đội để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn?
Sau chiến tranh, có những người quay về với cuộc sống bình yên, nhưng cũng có không ít người phải sống với những tổn thương vĩnh viễn, phải chấp nhận cuộc sống với một cơ thể không hoàn hảo. Trong số đồng đội của Vũ Công Chiến, ông đã kể về rất nhiều trường hợp như thế. Mỗi người có một số phận khác nhau, có người phải đối mặt với khó khăn của cuộc sống, có người chấp nhận không được công nhận là thương binh để tiếp tục học hành, có những người bị ảnh hưởng tâm thần bởi những vết thương,...
Trong số những hậu quả của chiến tranh, việc bị ngộ độc chất độc màu da cam là một trong những thương tích nặng nề nhất, khiến người lính phải chịu đựng cảm giác đau đớn và tàn phá không thể tả. Cho đến ngày nay, sau nửa thế kỷ đã trôi qua, nỗi đau từ 'chất độc màu da cam' vẫn còn ám ảnh hàng ngàn gia đình. Có những gia đình như vợ chồng Vũ Công Chiến, may mắn vẫn giữ được bình yên. Nhưng cũng có những trường hợp như cựu chiến binh Nguyễn Bình Hiệt, mọi nỗ lực của họ chỉ đổi lại là sự khó khăn và đau đớn, khiến cho tương lai của những đứa con không được toại nguyện.
Cuộc sống của những người như Hiệt dường như chỉ còn là một sự tồn tại. Đối với họ, không còn gì quan trọng hơn nữa. Tưởng chừng những đứa con bệnh tật sẽ là niềm hy vọng, nhưng đó chỉ là nỗi lo sợ về tương lai khi chúng không nhận thức được sự mất mát. Liệu có cơ sở an ủi cho những đứa trẻ như vậy?
Đó là số phận, một số phận đau lòng của thế hệ sau phải chịu đựng những hậu quả của chiến tranh. Những câu chuyện đau lòng đó khiến con người ta căm hận những kẻ đã gieo rắc hận thù, chiến tranh chỉ để kiếm lợi cho bản thân.
Ngoài những câu chuyện đau lòng, còn có những tấm gương sáng cho thế hệ mai sau. Như Nguyễn Quang Vinh và Hồ Tú Bảo, họ chấp nhận số phận để có cơ hội học tập và thành công. Hoặc câu chuyện về anh Nghi, mặc dù khó khăn nhưng anh vẫn quyết tâm cho con đi học. Những câu chuyện đó khiến chúng ta nhớ về trách nhiệm của mình với xã hội và quê hương.
Đáng chú ý nhất là những câu chuyện tình yêu sau chiến tranh. Dù trong cảnh túng thiếu, những đám cưới vẫn diễn ra đơn giản nhưng đầy ý nghĩa. Ví dụ như chuyện tình của Vũ Công Chiến và bà Lan, một tình yêu đẹp đẽ và sâu sắc. Mỗi lần nhớ về vợ, Vũ Công Chiến luôn diễn tả một cách dịu dàng và đầy yêu thương.
Trước đây, anh thấy thế giới của phụ nữ như một mảnh ghép lớn, mỗi mảnh là một cá nhân riêng biệt. Nhưng bây giờ, thế giới của phụ nữ trong anh đã được chia thành hai phần: Một nửa là em, và nửa còn lại là tất cả những người phụ nữ khác trên thế giới này.
Lan cười rạng rỡ, ánh mắt lung linh, rõ ràng em thích câu nói đó.
...
Sau khi kết hôn, đến sáu tháng sau, mỗi khi tôi trở về nhà vào buổi chiều, Lan luôn mở cửa đón tiếp tôi với vẻ đẹp tinh tế và quyến rũ. Cứ như chúng tôi mới vừa cưới hôm qua vậy.
Có ai có thể không bị xúc động khi nghe người yêu hoặc chồng tỏ tình 'Trên thế giới này, chỉ có mình anh là người yêu em nhất'. Và những người lính, họ không chỉ nói bằng lời, mà còn bằng hành động, luôn biết cách thể hiện tình yêu và sự quan tâm đặc biệt đối với người phụ nữ họ yêu thương, người đã ở bên cạnh họ vượt qua mọi gian khó trong những thời kỳ khó khăn của đất nước.
Vợ tôi cần sữa, tôi đi ra các chợ xa xôi ngoại ô để mua đu đủ non hoặc móng giò về hầm cho vợ. Một lần, tôi đã làm được điều đó như một người đàn ông đảm đang. Thậm chí tôi còn chọn móng giò lợn đen thay vì lợn trắng như các cụ khuyên. Điều này cho thấy công việc tự lập của tôi cũng có ích cho gia đình. Tuy không làm giàu, nhưng đủ để giúp đỡ trong những lúc khó khăn.
Người lính luôn biết trân trọng những người đã cùng họ vượt qua gian khó. Tôi nhớ đến cặp vợ chồng lính hàng xóm của tôi. Họ luôn dành cho nhau những sự quan tâm và tình cảm, đặc biệt vào những dịp đặc biệt như ngày 8/3 hoặc 20/10. Tôi nhận ra rằng nhiều người trẻ hiện nay đôi khi quên đi giá trị của gia đình trong cuộc sống bận rộn.
Tinh thần bất khuất của thế hệ trẻ yêu nước
Chúng tôi không chỉ kể lại cuộc sống của cựu chiến binh sau chiến tranh, mà còn truyền lửa cho thế hệ sau về tinh thần kiên cường và quyết tâm của cha anh trong thời loạn.
Ngoài niềm tin vào tương lai sáng sủa, đó là động lực để chúng tôi chiến đấu và hy sinh. Dù không biết chắc chắn liệu sẽ sống đến ngày chiến thắng hay không, nhưng chúng tôi luôn tin rằng dân tộc sẽ chiến thắng cuối cùng.
Niềm tin đó là không thể phai nhạt, nó vẫn tồn tại mạnh mẽ đến mức nếu có cơ hội, những người lính sẽ vẫn sẵn sàng cầm súng ra trận, bởi vì họ tin rằng một ngày nào đó, những cống hiến và khó khăn mà họ đã chịu đựng sẽ được đền đáp xứng đáng. Đó là tinh thần của thế hệ cha ông, nhưng thế hệ trẻ hiện nay sẽ làm thế nào? Nếu đất nước lại đối diện với nguy cơ, bạn sẽ lựa chọn gì?
Những người lính luôn tin rằng những hy sinh của họ là xứng đáng, để lại một Việt Nam tươi đẹp cho tương lai, cho dù là sau 10 năm, 20 năm hay mãi mãi sau này. Chúng tôi không biết điều gì sẽ xảy ra trong tương lai, vì vậy, những người lính thường viết thư hoặc nhật ký để gửi đi những tâm tư và lời khuyên cho thế hệ tiếp theo.
Hoặc có thể sau 50-100 năm, những thư này mới đến tay người đọc, gọi là thế hệ sau này, cho phép chúng tôi gửi lời chào tới xã hội chủ nghĩa, để chia sẻ niềm vui lớn khi thế giới đang tràn ngập hạnh phúc và hòa bình, và chúng tôi, những con người nhỏ bé, cũng đóng góp vào điều đó.
Chúng tôi, những người trẻ trong xã hội chủ nghĩa, cũng muốn gửi lời chào tới những người đã đóng góp cho nền hòa bình của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chúng tôi cam kết tiếp tục tin tưởng vào chiến thắng và tương lai sáng sủa của các anh, để tiếp tục xây dựng đất nước mạnh mẽ. Lớp trẻ Việt Nam sẽ kế thừa tinh thần bất khuất của ông cha, vượt qua khó khăn của năm 2020 này và đem lại bình yên cho đất nước.
Kết luận
Đến với Chúng tôi thời hậu chiến, bạn sẽ không gặp những câu chuyện về chiến trận to lớn hay những trận đánh lịch sử quan trọng. Thay vào đó, cuốn sách kể về cuộc sống hàng ngày của người lính sau chiến tranh, xen lẫn những kí ức buồn vui của bộ đội cụ Hồ. Những câu chuyện tuy bình dị nhưng đủ để làm cho thế hệ sau ngưỡng mộ tinh thần lạc quan và ý chí kiên cường của người Việt. Mỗi người mỗi câu chuyện khác nhau, có thành công có thất bại, nhưng tất cả đều có chung quá khứ hy sinh và chiến đấu vì đất nước, giữ được bản tính đạo đức và lòng dũng cảm của một người lính. Họ đã dành tuổi thanh xuân đẹp nhất của mình để phục vụ Tổ quốc. Sau chiến tranh, họ tiếp tục cuộc sống hàng ngày mà không bao giờ tự hào về những kỳ tích của mình. Có những người đã trở thành ông bà, có những người đã ra đi mãi mãi, nhưng tuổi già không làm phai nhòa ký ức về những người bạn và những thời khắc cũ.
Chúng tôi thời hậu chiến khiến người đọc không thể không cảm thấy xúc động và tự hào về quá khứ của đất nước, về vẻ đẹp bất diệt của người con Việt Nam:
Chúng tôi đã hi sinh tuổi thanh xuân của mình mà không hối tiếc
(Tuổi thanh xuân, ai không hối tiếc)
Nhưng ai cũng hối tiếc vì Tổ quốc, có gì đáng luyến tiếc hơn không?
Tác giả: Trần Ngân
Hình ảnh: Cẩm Vân