Tôi tốt nghiệp trung học vào năm 1994 và đại học vào năm 1998. Thời kỳ đó, việc săn lùng học bổng không phổ biến như hiện nay. Mặc dù muốn tận dụng cơ hội, nhưng tôi cảm thấy việc đạt được học bổng khá xa xỉ và không chắc chắn, vì vậy tôi không có kế hoạch cụ thể để phát triển bản thân và xây dựng hồ sơ.
Trong thời gian học trung học, tôi học tại Trường Thăng Long nhưng không có cảm hứng. Ban đầu, tôi dự định sẽ thi vào khối A nên đã chú trọng vào các môn Toán, Lý, Hóa. Tuy nhiên, vào kỳ nghỉ hè của lớp 10, tôi quyết định chuyển sang học tiếng Anh để thi khối D. Từ đó, trong suốt thời gian lớp 11 và 12, tôi tập trung vào việc học tiếng Anh và bỏ qua các môn không thuộc khối D. Có một học kỳ, điểm môn Lý của tôi còn thấp hơn trung bình. Đến lúc thi tốt nghiệp, tôi còn lo lắng về việc có thể trượt môn Hóa và tiếng Nga. Trong suốt thời gian học trung học, tôi chỉ tự hào về việc sở hữu các quyển đề thi TOEFL, IELTS. Tôi đã học tiếng Anh chỉ trong vòng 2 năm nhưng vẫn có thể cạnh tranh được với những bạn đã học tiếng Anh từ khi còn nhỏ để đạt điểm cao vào các trường đại học khối D.
Khi vào đại học, tôi lại tiếp tục học một cách lơi thơi. Tôi chỉ đơn giản viết tất cả bài học vào một quyển vở, thậm chí có những môn mà tôi không ghi chép. Tôi hăng hái học những môn mà tôi thích, nhưng lại lơi thơi đối với những môn không hứng thú. Tôi chỉ quan tâm đến những môn như du lịch, báo chí, và văn hóa được giảng dạy bởi các giáo sư giỏi ở các khoa khác. Thậm chí, tôi còn đi học phiên dịch do những người giảng dạy là những người đã có vị trí cao trong lĩnh vực của họ. Những người giảng dạy đó bây giờ đã leo lên vị trí Thứ trưởng, và bạn học của tôi cũng đã trở thành Vụ trưởng ở Bộ Ngoại giao.
Ngoài ra, tôi cũng tích cực tham gia vào Câu lạc bộ Tiếng Anh Thanh niên Hà Nội. Vào thời điểm đó, ở Hà Nội chỉ có hai câu lạc bộ kiểu này, nơi thanh niên đến để thảo luận về các chủ đề lớn như 'Hạnh phúc là gì?'.
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi có vẻ đã nằm trong top 10%, nhưng không đạt được bằng giỏi, chỉ đạt bằng khá. Theo như tôi biết, trong ngành của tôi, chỉ có 2 người đạt bằng giỏi vào năm đó.
Sau 4 năm làm việc trong ngành báo chí, một ngày nọ, khi tôi đến Apollo để phỏng vấn ông Khalid Muhmood, tôi gặp những cô gái 17, 18 tuổi đang rất nhiệt huyết với ước mơ du học. Ồ, lúc đó, 25 tuổi, tôi nhận ra rằng tôi cũng đã từng mong muốn được đi du học để trau dồi kiến thức và tiếp xúc với các văn hóa mới. Đồng thời, tôi cũng đang có ý định chuyển sang làm việc trong lĩnh vực quảng cáo. Về sau, tôi quay lại cơ quan và tìm hiểu về các học bổng lớn. Thời điểm đó, thông tin về học bổng phải được tìm kiếm trên các trang quảng cáo của các báo như Việt Nam News, Lao động, Thanh niên, Tuổi trẻ vì internet còn hạn chế. Tôi đã tham dự tất cả các buổi hội thảo về học bổng và nhận thấy rằng có đến 80% người tham dự là phụ nữ.
Với hồ sơ không đặc sắc như vậy, tôi quyết tâm viết bài luận và nộp hồ sơ cho tất cả các học bổng mà tôi biết, từ AusAID của Chính phủ Australia, Fulbright của Mỹ, Chevening của Anh, đến AIT-Europe là chương trình song bằng của Học viện Công nghệ Thái Lan AIT với các đối tác ở châu Âu...
Tôi bị loại khỏi vòng sơ tuyển học bổng AusAID. Lúc đó, họ yêu cầu ứng viên phải có điểm trung bình đại học trên 8, trong khi điểm của tôi chỉ là 7 vài. Tôi đã nhận ra rằng mình không đáp ứng được tiêu chuẩn nhưng vẫn cố gắng nộp hồ sơ.
Sau đó, tôi nhận được thông báo trúng học bổng đầu tiên từ AIT-Europe, với việc hỗ trợ toàn bộ học phí cho chương trình MBA kép, nhưng tôi phải tự mình xoay xở chi phí sinh hoạt trong 1 năm tại Thái Lan và 1 năm tại Pháp. Đối với một người như tôi, không có thành tích nổi bật, việc nhận được học bổng như vậy đã là một điều tốt. Tôi chuẩn bị sẵn sàng để bắt đầu hành trình học tập, dù chỉ có ít tiền từ bố mẹ. Tôi lo lắng không biết mình sẽ làm thế nào để chi trả chi phí sinh hoạt trong 2 năm học.
Chỉ sau 20 ngày học tại AIT, tôi đã tham gia hoạt động của sinh viên và đã phải lòng một chàng trai đẹp trai từ Hải Phòng, nhưng lại nhận được lời mời phỏng vấn từ Fulbright ở vòng Semi-Finalist. Tim tôi như kiến trúc lại. Vì vậy, tôi quyết định phải tham gia phỏng vấn Fulbright bằng được với mọi giá, vì tôi rất muốn nhận được học bổng đó để có cơ hội học tập và phát triển trong lĩnh vực quảng cáo, niềm đam mê của tôi. Tôi từ bỏ AIT và cả một tình yêu có vẻ như cũng không được đáp lại.
Fulbright không quan trọng điểm số mà chú trọng vào cá nhân và tiềm năng đóng góp của ứng viên đến các lĩnh vực quan trọng của Việt Nam như chính trị, quản lý công, luật pháp, truyền thông, phát triển, giáo dục hơn là kinh doanh. Trước buổi phỏng vấn Fulbright, tôi đã tìm gặp nhà báo Thu Uyên từ Vietnamnet để hỏi kinh nghiệm về phỏng vấn Fulbright và cô ấy nói với tôi: 'Em phải luôn luôn trung thực, đừng nghĩ là có thể giấu diếm gì được họ'. Vì vậy, trong buổi phỏng vấn, khi được hỏi về việc đăng ký thi GRE ở Thái Lan, tôi thẳng thắn nói rằng tôi đã nhận được học bổng tại Thái Lan và sống ở ngoại ô Bangkok, nên tôi đăng ký thi ở đó cho tiện. Sau đó, tôi cảm thấy đó là lúc quyết định rằng tôi sẽ không được chọn vào danh sách ứng viên Fulbright.
Rất may mắn, tôi được nhận học bổng Chevening. Tôi tin rằng tôi được chọn vì học bổng của Bộ Ngoại giao Anh ưu tiên các ngành công nghiệp sáng tạo và cũng may mắn nữa. Trong kỳ săn học bổng đầu tiên, tôi đã trượt 2 và trúng 2 học bổng học Thạc sĩ.
Trong kỳ săn học bổng thứ hai, khi tôi đã có con, tôi phát hiện ra rằng con tôi bị tự kỷ từ khi mới 14 tháng tuổi và tôi tìm kiếm kiến thức ở khắp mọi nơi để giúp con, bao gồm việc chi trả 135 USD/giờ cho trị liệu viên từ Mỹ hướng dẫn và giám sát tôi qua mạng. Mặc dù đã cố gắng học hỏi, nhưng tôi nhận ra rằng tôi không thể bằng những người chuyên nghiệp. Tôi muốn đưa con đi nước ngoài để được can thiệp chuyên sâu hơn, vì vậy tôi bắt đầu chiến dịch săn học bổng. Lần này, tôi cũng trở thành vòng Semi-Finalist của Fulbright, nhưng trong phỏng vấn, tôi không thể thuyết phục được rằng tôi đã cam kết đủ với ngành học mới. Tôi cũng xin học bổng AusAID của Chính phủ Australia nhưng không thành công. Tôi cũng xin học bổng Endeavour, nhưng bị trượt liên tiếp 2 năm. Vẫn là câu chuyện biết rằng mình không hoàn toàn đáp ứng được tiêu chí của học bổng nhưng vẫn cố gắng nộp đơn.
Tôi cảm thấy việc xin học bổng để học Thạc sĩ lần thứ hai quá khó khăn, và tôi không thích học PhD nên tôi tạm bỏ qua vài năm. Sau đó, khi tìm hiểu cách xin học bổng nghiên cứu sinh, tôi gửi hồ sơ đến Mỹ, Anh, và Úc. Một số giáo sư ở Mỹ nói rằng đề tài của tôi rất hay nhưng họ không có ngân sách, trong khi một số giáo sư ở Úc muốn hướng dẫn nhưng yêu cầu tôi phải tự xin học bổng từ chính phủ. Khi đang tìm hiểu về học bổng nghiên cứu của chính phủ Úc, tôi nhận được học bổng toàn phần từ một trường ở New Zealand, vì vậy tôi quyết định nhận ngay và không tìm kiếm thêm nữa.
Người ta thường kể về việc nhận được hàng chục học bổng trị giá hàng triệu đồng cùng một lúc, trong khi tôi lại kể về những thất bại, nhưng nếu kiên trì tìm kiếm, chắc chắn sẽ tìm được con đường. Điều quan trọng là không bao giờ từ bỏ.