Du lịch khám phá núi rừng Đắk Nông luôn cuốn hút với du khách bởi không khí hùng vĩ và đặc sản Tây Nguyên. Nếu bạn là người yêu thích ẩm thực, hãy khám phá những món ngon đặc trưng của Đắk Nông qua bài viết này!
Muối kiến vàng – Đặc sản Đắk Nông
Những người dân M’nông, Mạ, Ê đê tại Đắk Nông giới thiệu món ăn truyền thống độc đáo như cơm lam, canh thụt, canh bồi… và đặc biệt là món “muối kiến vàng” độc đáo với nguyên liệu gần gũi với thiên nhiên.

Muối kiến vàng – Đặc sản Đắk Nông
Muối kiến vàng là một món ăn phổ biến được sử dụng hàng ngày. Cách chế biến đơn giản, với nguyên liệu chính là kiến vàng. Bắt kiến, ngâm nước nóng hoặc rang chết, sau đó rang cùng muối và ớt xiêm. Muối kiến vàng có hương vị độc đáo, thơm ngon, thích hợp ăn với cơm, rau luộc hay các món thịt nướng.
Muối kiến vàng – Đặc sản Đắk Nông
Muối kiến vàng có hương vị lạ miệng, hấp dẫn khi kết hợp với cơm trắng, rau luộc hoặc thịt nướng. Kiến vàng chứa nhiều chất dinh dưỡng và được sử dụng trong nấu canh măng, canh lá giang, gỏi đu đủ. Việc bắt kiến phụ thuộc vào mùa nắng để kiến có vị đặc trưng.
Muối kiến vàng thường xuất hiện trong bữa ăn ở vùng cao Đắk Nông, là lựa chọn tuyệt vời thay thế cho muối ớt, kèm thịt nướng hấp dẫn nhất.
Cá lăng sông Sêrêpốk – Đặc sản Đắk Nông
Một món ngon khác ở Đắk Nông là cá lăng nướng than, mang đậm hương vị núi rừng. Cá lăng đuôi đỏ, sống ở sông Sêrêpốk qua Krông Nô và Cư Jút, là nguyên liệu chính của món ăn này.

Cá lăng sông Sêrêpốk – Đặc sản Đắk Nông
Cá lăng sông Sêrêpốk - Hảo hạng từ núi Tây Nguyên

Cá lăng sông Sêrêpốk – Đặc sản Đắk Nông
Cá lăng sông Sêrêpốk linh hoạt trong nhiều món như nướng, om, làm chả, hấp, xào tỏi hay nấu cháo… Với thịt béo, vị ngọt, cá lăng là nguồn dinh dưỡng phong phú.
Ngày nay, người dân Cư Jút đã phát triển nuôi cá lăng theo phương thức lồng, bè để tạo ra sản phẩm chất lượng. Cá lăng chấm muối ớt từ xả, ớt xanh và lá rừng, khi kết hợp với cơm lam, tạo ra hương vị đặc trưng của ẩm thực Đắk Nông.
Canh thụt – Ẩm thực Đắk Nông
Canh thụt là món ăn truyền thống của người M’nông, sử dụng nguyên liệu tự nhiên. Theo họ, canh thụt có nhiều công dụng, từ bồi bổ sức khỏe đến giải rượu, đặc biệt tốt cho mẹ sau sinh và những người yếu đuối.

Canh thụt – Ẩm thực Đắk Nông
Nguyên liệu chính của canh thụt truyền thống đều có sẵn trong thiên nhiên, bao gồm lá bép, đọt mây, cà đắng, ớt xiêm rừng, cá suối hoặc thịt động vật. Đối với người M’nông, đây là những quà tặng quý giá mà núi rừng ban cho họ từ đời này sang đời khác.
Bắt đầu bằng lá bép, đọt mây, cà đắng, rau rừng và cá suối, canh thụt có hương vị đặc trưng nhờ vào ống lồ ô. Ống lồ ô giữ cho mọi nguyên liệu trước khi nấu trên lửa than, tạo nên hương vị độc đáo.
Khi lửa than nổi lên, ống lồ ô nghiêng trên lửa để nấu. Lửa không quá lớn, và ống lồ ô cần được xoay liên tục để đảm bảo nguyên liệu bên trong chín đều. Thời gian nấu khoảng 30 phút, sau đó gia vị như muối, bột ngọt được thêm vào.
Canh thụt – Ẩm thực Đắk Nông
Ống lồ ô tiết nước và hòa vào nguyên liệu, tạo nên hương vị đặc trưng. Khi thức ăn chín, người nấu sử dụng thanh tre vót sẵn thụt để tất cả nguyên liệu thật nhuyễn, hòa quyện vào nhau. Điều này giải thích tại sao món ăn được gọi là “canh thụt”.
Canh thụt với hương vị độc đáo, ngọt ngào, đắng nhẹ, một chút cay nồng... hoà quyện trên bàn ăn truyền thống của người M’nông. Trong những buổi sum họp gia đình, người M’nông thường ưu ái nấu riêng một nồi canh thụt cho người lớn và thanh niên, với ớt xiêm xanh thêm vào theo lối nấu đặc biệt. Khi ăn kèm với cơm, chỉ cần thưởng thức một ít canh thụt, đã đủ để cảm nhận niềm vị ngọt, đắng, buồn ngủ, cay nồng... hấp dẫn vị giác của người thưởng thức. Đặc biệt, khi kết hợp với rượu, món ăn này trở nên thú vị trên bàn ăn truyền thống của người M’nông.
Canh thụt Đắk Nông độc đáo
Từ xưa đến nay, hầu hết người M’nông đều biết cách chế biến và coi canh thụt như một món ăn đặc trưng, là đặc sản quý của dân tộc. Người M’nông không chỉ nấu canh thụt để thưởng thức trong bữa ăn hàng ngày hay những buổi sum họp gia đình mà còn trân trọng biến nó thành lễ vật, không thể thiếu trong các ngày lễ, hội truyền thống.
Canh thụt trở thành biểu tượng phổ biến trong cuộc sống của cộng đồng M’nông. Canh thụt không chỉ làm giàu bữa ăn hàng ngày và những buổi sum họp gia đình mà còn góp phần tạo nên những kỷ niệm khó quên cho du khách khi đến với tỉnh Đắk Nông.
Khâu nhục đặc sắc ở Đắk Nông
Tham gia Lễ hội Tả Tài Phán - lễ cầu bình an của cộng đồng người Hoa tại xã Đắk Ru (Đắk R’lấp), chúng tôi không chỉ chứng kiến các nghi lễ tôn giáo mà còn khám phá một món ăn truyền thống rất độc đáo - Khâu nhục.

Khâu nhục - Đặc sản vùng cao Đắk Nông
Theo lời kể của cộng đồng người Hoa địa phương, món Khâu nhục đã tồn tại từ thời xa xưa và là không thể thiếu trong các dịp lễ tết, hiếu hỉ. Trong các đám cưới của người Hoa, nếu không có Khâu nhục, đám cưới đó coi như chưa diễn ra và đôi vợ chồng không thể duy trì tình cảm hạnh phúc suốt đời. Vì vậy, vào bất kỳ ngày lễ quan trọng nào, lớn hay nhỏ, món ăn này luôn là một phần không thể thiếu.
Để thưởng thức món Khâu nhục ngon, cần lựa chọn thịt ba chỉ không quá nạc và không quá nhiều mỡ. Gia vị bao gồm húng lìu, ngũ vị hương, địa liền, tỏi, ớt, dầu hào, mật ong, xì dầu, rượu, giấm, bột ngọt, hạt tiêu. Thịt sau khi luộc chín, được cạo sạch lông, rửa sạch và cắt thành miếng 0,5kg cho vào nồi luộc chín. Thịt luộc chín, châm tăm tre vào bì, khi bì chảy mỡ thì lau sạch và bôi rượu hoặc giấm để thấm đều.
Khâu nhục hấp dẫn từ Đắk Nông
Tiếp theo, thịt được chiên vàng rồi ngâm vào nước lạnh, cắt miếng 2cm và tẩm gia vị đều. Đặt vào nồi hấp trong 1,5 giờ cho đến khi thịt mềm nhũn. Khâu nhục khi bày ra có hình dáng đẹp mắt với màu vàng đồng đều, hấp dẫn và thơm ngon. Người Hoa thường ăn kèm với bánh mì, cơm nóng...
Khâu nhục - Món ăn gắn bó với truyền thống dân tộc, xuất hiện trong mọi gia đình và dòng họ. Quy trình chế biến phức tạp là biểu tượng cho tình đoàn kết và gắn bó của cộng đồng, là niềm tự hào của anh em, vợ chồng.
Bánh cuốn Tày - Hương vị Đắk Nông
Nhiều du khách khi đến Đắk Nông đã biết đến nhiều món ngon như Gà nướng, thịt nướng, cơm lam, canh thụt của các dân tộc M’nông, Mạ, Ê đê; lợn quay, vịt quay mắc mật của người Nùng; xôi ngũ sắc của người Thái… Tuy nhiên, trong vô vàn ẩm thực độc đáo, một món ăn ngon ít người biết đến chính là bánh cuốn của người Tày.

Bánh cuốn Tày - Đặc sản Đắk Nông
Tại Đắk Nông, cộng đồng người Tày sinh sống rải rác ở nhiều địa phương, nhưng đặc biệt nhiều ở các huyện Chư Jút và Krông Nô. Người Tày không chỉ nổi tiếng với nhiều món ăn ngon, phức tạp, mà món bánh cuốn là một trong những món phổ biến nhất. Trước đây, gia đình người Tày thường tự chế biến bánh cuốn để thưởng thức trong những ngày nông nhàn hay những lúc thời tiết không thuận lợi để ra nương, rẫy.
Bánh cuốn được làm từ gạo tẻ và thịt heo. Người làm thường chọn gạo tẻ ngon, ngâm nước rồi xay thành bột mịn. Bột được hòa với nước sao cho khi tráng, bánh kết dính vừa phải. Quá trình tráng bánh sử dụng nồi nước đun sôi, trên miệng nồi có tấm vải mịn. Bà con tráng từng chiếc một như tráng bánh đa.
Nhân bánh chủ yếu từ thịt lợn, đặc biệt là thịt ba chỉ, xay hoặc băm nhuyễn, trộn gia vị và phi hành đảo đều. Khi ăn, nhân được bỏ vào bánh và cuốn lại. Bánh cuốn ăn kèm rau thơm, hành tươi và nước chấm từ ớt ngâm với măng chua, hoặc có thể chấm với nước mắm ớt hoặc xì dầu. Cách ăn khác là ăn nước, với nước dùng hầm xương heo và gia vị, ăn nóng hổi được cuốn từng chiếc trên bàn tay của chủ quán.
Bánh cuốn Tày - Đặc sản Đắk Nông
Món bánh cuốn còn có cách ăn khác là ăn kèm nước dùng hầm xương heo, gia vị và rau sống. Thực khách đợi chủ quán cuốn từng chiếc, vừa ăn vừa thưởng thức bánh nóng hổi, trên bàn tay thoăn thoắt của chủ quán, rất hấp dẫn.
Ngày nay, người Tày hiếm khi tự làm bánh. Tuy nhiên, ở các chợ vùng sâu ở Chư Jút, Krông Nô, quán bánh cuốn nổi tiếng với thương hiệu “bánh cuốn Cao Bằng” do người Tày làm chủ. Làm bánh tưởng dễ, nhưng để có bánh ngon không hề đơn giản, đòi hỏi không chỉ tay nghề mà còn kinh nghiệm sâu rộng.
Ở thôn 1, xã Ea Pô (Chư Jút), quán bánh cuốn nhỏ của bà Bế Thị Tâm luôn đông khách bởi bánh ngon và giá cả phải chăng. Không chỉ là người dân địa phương, nhiều người từ các xã lân cận như Nam Dong, Đắk Wil cũng thường đến thưởng thức.
Bánh giầy – Đặc sản Đắk Nông
Người Tày thường nói, để trẻ con ngoan, chỉ cần hứa làm bánh giầy cho ăn là chúng trở nên ngoan ngoãn, vâng lời. Bánh giầy, một món ăn dân gian được làm từ xôi giã mịn, nặn thành hình tròn dẹt, có nhân bên trong. Thường làm vào dịp lễ, tết, cúng mừng vụ lúa mới, lễ cưới hoặc khi có khách quý đến chơi nhà…

Bánh giầy – Đặc sản Đắk Nông
Trên vùng đất Đắk Nông, quê hương thứ hai của nhiều gia đình người Tày từ phía Bắc đến định cư, bánh giầy là hương thơm gắn bó với nhiều thế hệ người Tày. Chiếc bánh như một ký ức, kết nối cuộc sống và con người Tày với vùng đất này.
Nguyên liệu làm bánh giầy truyền thống rất đơn giản với nếp, đậu xanh hoặc vừng đen, đường. Loại nếp thường là nếp nương hoặc nếp cái hoa vàng. Nếp được ngâm trong nước ấm, sau đó đem hấp để thành xôi. Khi xôi hấp chín, người Tày sử dụng bạt ni lông hoặc cối đá, cối gỗ cùng chày tre hoặc chày gỗ để giã xôi thành bột mịn, dẻo, hòa quyện.
Người Tày dùng tấm bạt ni lông hoặc cối đá, cối gỗ tốt cùng chày tre nặng, chày gỗ để giã xôi. Công đoạn này đòi hỏi sức lực và thường được nhiều người cùng thực hiện. Việc giã xôi cần được thực hiện liên tục để đảm bảo xôi nhuyễn đều. Bánh giầy, một biểu tượng của sự kết nối và bền vững giữa người Tày và vùng đất Đắk Nông.
Bánh giầy – Đặc sản Đắk Nông
Bánh giầy của người Tày không chỉ ngon miệng mà còn đẹp mắt với nhiều màu sắc như xanh, đỏ, tím, vàng, được tạo nên từ lá cẩm, lá dứa, củ nghệ, quả gấc… kết hợp với gạo. Công đoạn giã xôi và làm nhân cũng được thực hiện cẩn thận để tạo nên bánh với hương vị độc đáo.
Công đoạn làm nhân bánh đậu xanh và nhân vừng đen không chỉ đơn giản mà còn yêu cầu sự tỉ mỉ trong việc kết hợp nguyên liệu. Nhân đậu xanh được làm từ đậu xanh chín, đánh nhuyễn với mật mía. Nhân vừng đen gồm đậu phụng, hạt mè rang vàng, đường, tạo nên hương vị độc đáo và thơm ngon.
Phụ nữ Tày thường tiến hành công đoạn nặn bánh, tạo ra những chiếc bánh nhỏ xinh cỡ ½ nắm tay hoặc to bằng chiếc đĩa, phù hợp với mục đích sử dụng trong các dịp lễ, Tết, cúng tổ tiên, lễ cưới hoặc bữa ăn gia đình.
Cách làm bánh giầy của người Tày là một nghệ thuật tinh tế, từ việc dàn mỏng cục bột, đổ nhân vào giữa, tạo ra những chiếc bánh giầy hình tròn, dẹt với đường kính khác nhau. Bánh con có kích thước nhỏ, khoảng 10 cm, trong khi bánh cha, bánh mẹ lớn hơn, thường không có nhân. Những chiếc bánh lớn được làm trong lễ cưới, được phết một lớp sáp ong hoặc mỡ lợn để giữ độ bóng, dẻo, thơm và tránh dính nhau.
Bánh giầy – Đặc sản Đắk Nông
Hương vị thơm ngon của gạo nếp, sự dai dẻo của nếp hòa cùng vị ngọt ngào từ nhân bánh khiến chiếc bánh giầy trở nên hấp dẫn. Đây không chỉ là một món ăn ngon mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết, biết ơn với ông cha, người mẹ và đất trời. Phụ nữ Tày với đôi bàn tay khéo léo tạo nên những chiếc bánh giầy thơm ngon, góp phần kế thừa và truyền thống cho thế hệ sau.
Bánh giầy là không gian linh thiêng, được dâng cúng thần linh và tổ tiên, thể hiện lòng biết ơn của người Tày đối với sự hỗ trợ của cha ông và lòng hiếu kính đối với đất trời. Mỗi chiếc bánh giầy là một tình cảm vẹn tròn, là hồn của nghệ thuật ẩm thực truyền thống, là sự gắn kết của cộng đồng.
Cách làm bánh pẻng tải có nhiều biến thể tùy thuộc vào sở thích và sinh hoạt của các nhóm Nùng, chẳng hạn như Nùng An, Nùng Dín, Nùng Phan Slình. Dù khác biệt, nguyên tắc chung vẫn giữ nguyên, là sự kết hợp tài năng làm bánh từ gạo nếp, lá gai, đậu, mè, thịt heo. Bánh không chỉ là thức ăn, mà còn là biểu tượng của đoàn kết, lòng biết ơn, và sự quý báu của nguồn nguyên liệu tự nhiên.
Trong truyền thuyết dân gian Nùng, từ thời vua Lý Thái Tông, bánh “tải” đã xuất hiện trong cuộc sống và trở thành lương thực quan trọng đồng bào khi ra vùng biên giới đánh giặc. Còn được biết đến với các tên gọi khác như bánh đeo, bánh vắt vai, bánh đoàn kết, bánh pẻng tải được làm từ gạo nếp, lá gai, đậu, mè, thịt heo. Nguyên liệu quý bản là món quà của tự nhiên, từ vườn nhà và tự trồng, thể hiện tình cảm đoàn kết và lòng biết ơn đối với tổ tiên.

Bánh Pẻng Tải – Đặc sản của Đắk Nông
Người Nùng coi trọng việc làm bánh pẻng tải như một cách dâng hiến cho tổ tiên, biếu cha mẹ, nuôi dưỡng con cái. Trong tâm tư người Nùng, những nguyên liệu dùng để làm bánh phải là đặc sản tự trồng, tự làm, mới đáng quý. Bánh pẻng tải không chỉ là thức ăn quan trọng mà còn là biểu tượng của truyền thống, đoàn kết và lòng biết ơn.
Tại Đắk Nông, người Nùng truyền thống thường làm hai loại bánh trong các lễ cúng: bánh nếp chuối đường và bánh nếp lá gai đường. Đối với bột nếp và chuối, cần sử dụng chuối mốc chín để tránh chua. Bột từ lá gai đòi hỏi nhiều công đoạn vất vả hơn.
Lá gai sau khi tước bỏ gân, phơi khô và ninh nhừ, được thái mịn. Đường phèn hoặc đường bát đun sôi, trộn với lá gai tạo thành mật sền sệt. Bột nếp được nhào đều với mật và giã nhuyễn trong cối đá, có độ mịn màng, dẻo quánh, màu xanh đen. Nhân bánh là mè rang giã nát trộn đường bát.
Bánh Pẻng Tải – Đặc sản của Đắk Nông
Loại bánh dành cho ăn hàng ngày hoặc để bán thường đơn giản hơn với hai nguyên liệu chính là gạo nếp và đậu. Gạo nếp được ngâm và xay thành bột, sau đó rỉ nước để trộn đường. Nhân ban đầu từ mè rang, sau này có thêm đậu xanh, đậu phộng, đậu đỏ, đậu đen… để tăng hương vị và dinh dưỡng cho bánh.
Nhân bánh từ đậu phộng được rang và giã nhuyễn, sau đó trộn đường. Nhân đậu xanh, đậu đỏ, đậu đen ngon mềm, bùi mà không nhão cần ngâm nước nóng 2 giờ và hấp chín. Thêm đường, giã nhuyễn và vo viên.
Bánh Pẻng Tải – Đặc sản của Đắk Nông
Loại bánh “pẻng tải” được gói bằng lá chuối, hấp 30 phút là chín. Sau đó, xâu bánh thành đôi, treo lên nơi thoáng mát để 3 – 5 ngày mà không hỏng mốc. Bánh có hương vị ngọt thanh của đường, sự dẻo thơm của nếp và ngọt bùi của nhân đậu. Để khiến bánh không khô, phụ nữ Nùng thường nướng sơ hay rán lại.
Lên nương rẫy, người Nùng treo bánh như vắt khăn mặt ở cổ. Chiếc bánh trở nên gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống. Đặc biệt, trẻ em Nùng lớn lên với mùi vị béo ngon mà không ngấy, thơm ngọt của chiếc bánh.
“Pẻng tải” – biểu tượng đoàn kết, đặc sản của dân tộc Nùng. Hương thơm nhẹ nhàng lan tỏa, gợi nhớ về quê hương, truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm của người Nùng và cộng đồng Việt Nam.
Đặc sản thịt gác bếp – Đắk Nông
Người Thái, Dao, Mông, Tày,… ở tỉnh cũng sáng tạo món thịt khô gác bếp (thịt khô). Món ăn không chỉ là cách bảo quản thịt hiệu quả mà còn là đặc sản ẩm thực của các dân tộc thiểu số, phản ánh phong tục và cuộc sống hàng ngày của họ.

Đặc sản thịt gác bếp – Đắk Nông
Trước khi có phương pháp bảo quản thịt hiện đại, các dân tộc thiểu số thường áp dụng cách hun khói (xông khói) cho thịt lợn, bò, trâu, nai… Cách tẩm ướp thịt là điểm khác biệt quan trọng trong quá trình chế biến.
Gia vị tẩm ướp thịt tạo ra hương vị đặc trưng cho mỗi dân tộc. Thái, Tày thường sử dụng nhiều loại gia vị, thảo mộc từ rừng. Mông, Dao giữ lại hương vị nguyên bản của nguyên liệu chính, có cách chế biến đơn giản hơn.
Ngoài lá, củ rừng và muối hạt, người Tày còn dùng rượu để tẩm ướp thịt. Thịt được rửa sạch, thái thành từng miếng dài, sau đó không rửa lại bằng nước. Miếng thịt sau khi hun khói sẽ teo lại nên được cắt to, dài (khoảng 20 – 30 cm, rộng 5 – 15 cm).

Thịt khô đặc sản – Đắk Nông
Sau bước sơ chế và tẩm ướp, thịt được xiên từng miếng vào thanh nứa, treo lên gác bếp. Bếp lửa đốt liên tục từ 5 – 6 tiếng. Thịt treo trên bếp được hun khói, hấp dẫn khi lớp bì vàng, lớp mỡ trong suốt. Người Tày sau khi làm khô thịt, họ gói vào lá chuối khô để bảo quản và dùng dần.
Cư trú ở vùng cao, người Mông thích ẩm thực ấm nóng để chống rét. Thịt lợn, sau khi gia đình có sự kiện mổ lợn, thường được treo trên bếp hun khói. Lợn thả rong trong rừng mang lại thịt khô ngon nhất.
Với sức nóng của lửa, thịt chín dần, thịt nạc đỏ, thịt mỡ trong suốt. Thịt có thể ăn trực tiếp hoặc chế biến thành nhiều món khác nhau như luộc, nướng, xào cùng các nguyên liệu khác…

Thịt khô đặc sản – Đắk Nông
Bếp củi trong nhà người Dao luôn nung nấu, thường xuyên đỏ lửa. Dải thịt khô treo trên bếp quanh năm, hun khói bề ngoài, nhưng bên trong vẫn giữ hơi ẩm, thịt mềm ngon khi ăn.
Khi có khách, người Dao thường lấy miếng thịt khô nướng trên than hồng. Khi thơm mùi, họ dùng chày đập nhẹ làm mềm thịt, xé sợi để nhấm kèm rượu cho khách. Mặc dù ngoại hình thịt cứng, nhưng khi ăn, thịt thơm và giữ được độ mềm, ngọt. Trong những ngày tết, mỗi gia đình người Dao đều có dãy thịt lợn gác bếp.
Cách xông khói trên gác bếp tạo hương vị thơm ngon độc đáo cho miếng thịt. Phụ nữ sau giờ làm việc trở về, chế biến thịt thành các món ăn hấp dẫn cho bữa cơm gia đình. Ngày nay, thịt khô gác bếp trở thành đặc sản được nhiều dân tộc chế biến thành sản phẩm hàng hóa, phục vụ người dân và du khách.
Canh chua kiến vàng – Đắk Nông
Từ xa xưa, cư dân Ê-đê ở xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút (Đắk Nông) đã biến tấu kiến vàng thành những món ăn độc đáo, hấp dẫn như canh chua kiến vàng, một đặc sản truyền thống độc đáo của họ.

Canh chua kiến vàng – Đắk Nông
Kiến vàng sống trên cây, xây tổ ở những nơi cao, và thời mưa, từ tháng 5 trở đi là thời điểm lý tưởng để người Ê-đê 'săn' kiến vàng, khi chúng đang chăm sóc tổ và đẻ trứng. Nguyên liệu cho món canh chua kiến vàng bao gồm kiến vàng, tôm, cá, cua sông, hoa djam tang, ngò gai, nén và các gia vị.
Để nấu món canh độc đáo này, người Ê-đê phải đi kiếm tổ kiến vàng. Thay vì dùng me hay lá giang để tạo vị chua, họ sử dụng kiến vàng để tạo ra hương vị chua độc đáo. Tổ kiến vàng với trứng sẽ làm cho hương vị của canh trở nên đặc sắc và dinh dưỡng hơn.
Với nguyên liệu tự nhiên, cách nấu canh chua kiến vàng rất đơn giản. Đầu tiên, trên bếp lửa, nồi nước sôi hứng lên, người nấu thả vào đó tôm, cua, cá nhỏ đã sơ chế và củ nén đập dập để gia vị thấm đều. Sau 5 phút, khi món đã chín, thêm hoa 'djam tang' và kiến vàng đã ngâm nước.
Cuối cùng, nêm muối, bột ngọt, thêm vài cọng ngò gai, món canh chua kiến vàng trở nên đặc sắc. Nếu muốn, có thể thêm vài quả ớt giã nát để làm cho món canh cay cay.
Canh chua kiến vàng – Đắk Nông
Người thưởng thức canh chua kiến vàng nấu hoa 'djam tang' sẽ được trải nghiệm vị chua đặc trưng của kiến vàng, vị béo của trứng kiến làm món ăn trở nên hấp dẫn. Mùi thơm từ sông Sêrêpốk kết hợp với vị ngon ngọt tạo nên một bữa ăn thú vị.
Một món ăn hấp dẫn từ người Ê đê, thưởng thức cùng cơm trắng kích thích vị giác. Món canh chua, mặc dù giản đơn nhưng đậm đà, khẳng định nghệ thuật ẩm thực độc đáo của người Ê đê. Sự hài hòa từ rừng, sông, hỏa và thủy, mặn và ngọt tạo nên một bữa ăn không đối xứng.
Quả núc nác – Đắk Nông
Với cuộc sống gắn bó với thiên nhiên, đồng bào Tây Nguyên, M’nông, Mạ, Ê đê ở Đắk Nông đều coi cây trái tự nhiên là nguyên liệu chế biến thành món ăn yêu thích. Một trong những món ăn được ưa chuộng là quả núc nác.

Quả núc nác – Đắk Nông
Cây núc nác, thuộc họ cây bồ kết, mọc rải rác trong rừng, từ ngọn non đến quả đều được sử dụng làm nguồn thực phẩm hàng ngày.
Những món từ quả núc nác có vị đắng và hăng, không phải ai cũng thích. Người ta chế biến núc nác thành món xào, luộc, nấu canh, nhưng ngon nhất vẫn là món gỏi, được làm từ quả non hoặc quả đã chín.
Để có món ngon từ núc nác, đồng bào thường hái quả non “bánh tẻ”, chưa già, có màu xanh nhạt.
Nướng quả núc nác trên bếp lửa đến khi cháy đen vỏ, tạo ra vị thơm đặc trưng. Sau đó cạo sạch vỏ cháy, rửa sạch, để ráo và cắt lát mỏng. Cắt quả mỏng giúp tránh vị đắng.
Quả núc nác – Đắk Nông
Để món gỏi núc nác thêm phần phô diễn, bạn có thể kết hợp với cá khô rang vàng, cá nướng hoặc thịt ba chỉ, tùy theo sở thích gia đình.
Chuẩn bị nước cốt chanh, hạt lạc rang giã nhỏ, rau thơm trộn cùng với cá và núc nác. Trước khi thưởng thức, hãy trộn các nguyên liệu để giữ vị đặc trưng của từng thành phần. Món gỏi sẽ kết hợp vị nhân nhẫn đắng của núc nác, vị cay the của ớt, mùi thơm của rau và vị béo của cá, thịt, tạo nên hương vị hấp dẫn.
Núc nác không chỉ là nguyên liệu cho món ăn ngon mà còn là vị thuốc quý. Theo người già ở các bon làng, vỏ thân núc nác có tác dụng thanh nhiệt. Lá, hoa và quả non đều có thể ăn được sau khi đun nấu.
Đồng bào thường ẩn quả núc nác trong tro than, sau đó bóc vỏ để xào ăn. Hạt và vỏ thân thường được sử dụng trong y học, đặc biệt là trong điều trị viêm họng cấp và mạn tính, khan cổ, viêm phế quản cấp và ho gà…
Ngày nay, quả núc nác không chỉ là món ăn phổ biến trong cộng đồng dân tộc mà còn trở thành đặc sản phục vụ tại các nhà hàng, khách sạn. Cây núc nác đã được người dân đưa về trồng trong các rẫy cà phê, và khi có trái, chúng được bán tại chợ.
Cơm lam người Mạ – Đắk Nông
Truyền thống du canh du cư của đồng bào thiểu số, đặc biệt là người Mạ, đã tạo ra sự sáng tạo trong chế biến thức ăn. Một sản phẩm tiêu biểu là cơm lam, xuất phát từ việc sử dụng nguyên liệu và dụng cụ thô sơ từ rừng.

Cơm lam người Mạ – Đắk Nông
Người Mạ sử dụng phương pháp nấu cơm lam độc đáo bằng cách cho gạo vào ống lồ ô tre, nấu bằng nước suối từ con suối, vách đá. Phương pháp này giữ nguyên hương vị và dinh dưỡng của gạo, tạo nên một loại cơm đặc biệt. Cơm lam là món ăn phổ biến không thể thiếu trong các dịp lễ, hội của người Mạ.
Để có cơm lam dẻo thơm, người Mạ cần phải tỉ mỉ và khéo léo từ việc chọn gạo, chuẩn bị ống nấu đến cách đặt trên than. Gạo nếp được chọn cẩn thận, ngâm nước vài tiếng, sau đó vo sạch và trộn với ít muối trước khi đặt vào ống lồ ô.
Ống lồ ô cần phải có độ tuổi vừa đủ, khoảng 1m chiều dài. Việc đổ gạo vào ống phải được thực hiện cẩn thận, không dồn quá chặt. Lá rừng được sử dụng làm nút bịt ở đầu ống, thường là lá dứa rừng để tạo mùi thơm đặc biệt cho cơm lam.
Trước khi bắt đầu nấu, ngọn lửa phải được làm hồng để đảm bảo cơm không bị cháy khô và nấu chín đều. Ống cơm không nằm trực tiếp trên than mà phải được gác lên thanh ngang, tạo góc 45 độ. Việc trở ống cơm phải thực hiện đều tay cho đến khi vỏ nứa khô. Khi mùi thơm của nếp bay ra từ đầu ống, cơm đã chín. Để tránh bí hơi và nứt ống, lúc gần chín, đục lỗ dưới ống lồ ô.
Cơm lam người Mạ – Đắk Nông
Cơm lam được cắt thành từng khúc tiện ăn, giữ được lớp lụa mỏng màu trắng ngà. Chỉ cần kèm theo muối vừng, muối ớt và đoạn cơm lam trong chiếc gùi là có bữa cơm ngon cho những người đi lên rẫy. Điểm đặc biệt của cơm lam là có thể giữ được lâu mà không bị ôi thiu.
Từ việc gieo hạt trên nương đến khi thu hoạch, làm nên món cơm lam, người Mạ coi đây là sự giao hòa của đất trời, rừng núi, và thần linh ban ơn. Gạo nấu trong ống lồ ô, nứa tre (mộc), dùng nước trong ống hoặc từ suối, thác (thủy), và có lửa để nấu (hỏa), chế biến và nấu trên mặt đất, vùng núi rừng (thổ)…
Với sự sáng tạo tuyệt vời, món ăn truyền thống này mang theo một tâm linh sâu sắc. Trong những dịp lễ hội, không gì ngon bằng việc thưởng thức thịt nướng kèm cơm lam. Trên bàn cúng thần linh của người Mạ, sự hòa quyện giữa màu trắng tinh khôi của cơm lam và màu vàng hương thơm của thịt nướng tạo nên một bức tranh ẩm thực độc đáo. Việc thưởng thức hương vị cay nồng của rượu cần, hòa quyện với hương vị dẻo ngọt của cơm lam và độ béo ngậy của thịt nướng, là một trải nghiệm tuyệt vời. Đồng thời, nghe câu chuyện về quá trình khai hoang, lập làng của ông cha Mạ trên mảnh đất đỏ bazan truyền thống.
Ăn gì khi đến Đắk Nông? Dưới đây là những món đặc sản nổi tiếng của Đắk Nông. Có những món dễ ăn và những món thách thức vị giác. Hãy thử và bạn có thể phát hiện ra những sở thích ẩm thực mới. Hãy tận hưởng những hương vị đặc sắc của Đắk Nông khi bạn có cơ hội ghé thăm.
Người đăng: Hồng Hải Mai Thị
Từ khóa: Ăn gì khi đến Đắk Nông?