Nội dung: [Tóm Tắt Sách] “Tự Luyện Cách Tư Duy”: Chỉ Đạo Tư Duy, Đổi Đời
Tư duy và trí thông minh có sự khác biệt hoàn toàn. Nếu so sánh trí thông minh như động cơ của một chiếc xe, thì tư duy chính là kỹ năng lái. Rất nhiều người có trí thông minh vượt trội nhưng lại kém về tư duy và rơi vào “bẫy của sự thông minh' của chính mình. Trong khi đó, nhiều người không có trí thông minh cao nhưng lại phát triển được tư duy ở mức cao. Tư duy là một kỹ năng có thể học hỏi, rèn luyện và phát triển. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta phải mong muốn phát triển nó, tức là học cách sử dụng tư duy, giống như việc học cách lái xe đạp hoặc ô tô.
Tư duy là một trong những kỹ năng cơ bản nhất của con người. Kỹ năng tư duy quyết định đến sự hạnh phúc và thành công trong cuộc sống. Chúng ta cần tư duy để lập kế hoạch, để lãnh đạo, giải quyết vấn đề, mở ra cơ hội và xây dựng tương lai cho bản thân. Nếu không có khả năng tư duy, chúng ta sẽ trở thành những chiếc lá bị cuốn theo dòng nước, hoàn toàn mất kiểm soát về định mệnh của mình. Tư duy là một quá trình thú vị và hấp dẫn – miễn là chúng ta biết cách làm cho quá trình này trở nên thú vị và hấp dẫn. Hệ thống giáo dục truyền thống ở trường trung học và đại học chỉ giảng dạy một phần của tư duy, điều mà bạn cần là tiếp tục học hỏi trên con đường đến thành công của mình.
Tuy nhiên,
Có thể bạn tin rằng cảm xúc và giá trị là những yếu tố quan trọng nhất trong cuộc sống. Bạn là đúng. Đó là lý do tại sao tư duy lại có ý nghĩa như vậy. Mục tiêu của tư duy là mang lại cho bạn những giá trị mà bạn tìm kiếm, giống như chức năng của xe đạp là đưa bạn đến nơi bạn muốn đến. Tư duy giống như một chiếc xe giúp bạn tiết kiệm năng lượng hơn, đưa bạn đến nơi đích nhanh chóng hơn và giúp bạn đi xa hơn. Vì vậy, tư duy cũng giúp bạn tận hưởng các giá trị của mình một cách hiệu quả hơn.
Bạn đang bị giam cầm trong một căn phòng. Bạn khao khát tự do. Cảm xúc của bạn đang cao trào. Nhưng điều gì quan trọng hơn: cảm xúc hay chìa khóa để mở cửa? Cảm xúc không có ý nghĩa nếu không có phương tiện thể hiện, cũng như chìa khóa không có giá trị nếu thiếu khao khát thoát khỏi giam cầm. Chúng ta cần giá trị, cảm xúc và tư duy. Cảm xúc không thể thay thế cho tư duy. Tư duy mà không có giá trị chỉ là sự tưởng tượng. Đây là cuốn sách về tư duy. Giá trị và cảm xúc đều quan trọng, nhưng thiếu tư duy, tất cả chỉ là vô nghĩa.
Hãy tưởng tượng một căn bếp với chiếc bàn chứa đựng thực phẩm ở giữa. Người đầu bếp sẽ làm việc với thực phẩm. Người đầu bếp rất giỏi và hoàn thành công việc một cách xuất sắc. Không có sai sót nào xảy ra.
Chúng ta cũng áp dụng điều tương tự với tư duy. Chúng ta chú ý nhiều đến phần xử lý của tư duy. Chúng ta đã phát triển các ngành toán học, thống kê, máy tính và các loại lập luận khác một cách xuất sắc. Chúng ta tập trung vào quá trình xử lý và kết quả. Nhưng chúng ta ít quan tâm đến nguyên liệu. Chúng ta không suy nghĩ về việc nguyên liệu đến từ đâu, được chọn lựa và đóng gói như thế nào. Nguyên liệu của tư duy là từ nhận thức. Nhận thức là cách chúng ta nhìn thế giới, chia nhỏ để có thể xử lý. Nhận thức quyết định cách chúng ta đánh giá một ly nước là “đầy” hay “cạn”. Hầu hết suy nghĩ hàng ngày diễn ra ở mức nhận thức. Chỉ khi giải quyết các vấn đề kỹ thuật, chúng ta mới sử dụng các quy trình khác như toán học.
Trong tương lai, máy tính sẽ thực hiện toàn bộ quá trình xử lý tư duy, và nhận thức sẽ trở thành một phần quan trọng hơn nữa. Quá trình xử lý tốt của máy tính không thể thay thế nhận thức. Vì thế, trong tương lai, vai trò của nhận thức trong tư duy sẽ càng trở nên quan trọng.
Hầu hết sai lầm của tư duy không phải là logic mà là nhận thức – ngoại trừ trong các trường hợp giải đố. Chúng ta thường chỉ nhìn thấy một phần của tình huống hoặc nhìn nhận tình huống theo một cách cố định. Tuy nhiên, chúng ta vẫn coi logic là quan trọng và ít quan tâm đến nhận thức. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này.
Trong thời kỳ Trung cổ và Phục hưng, tư duy chủ yếu được thực hiện bởi giáo dân, nhóm người duy nhất quan tâm đến tư duy và học thuật trong thời kỳ này. Nhà thờ giữ vị thế quan trọng trong xã hội và quản lý trường học. Do đó, “lối tư duy mới” trong thời Phục hưng chủ yếu được áp dụng trong thần học. Trong các lĩnh vực này, có các khái niệm về “Chúa”, “công lý”... Vì vậy, người ta thường xử lý các vấn đề theo một cách logic xoay quanh những khái niệm này mà không quan tâm đến nhận thức. Điều này là không hợp lý, vì logic chỉ có thể xử lý những gì có sẵn, trong khi nhận thức có thể phát triển và mở rộng đến những gì chưa có sẵn.
Quan điểm sai lầm về sức mạnh của logic là một trong những sai lầm cơ bản của cách tư duy truyền thống. Quan điểm này phát sinh từ việc không phân biệt được giữa việc 'nhận thức trước khi sự việc xảy ra' - còn được gọi là 'nhận thức trước' - và việc 'nhận thức sau khi sự việc đã xảy ra' - còn được gọi là 'nhận thức sau'. Logic có thể chỉ ra những thiếu sót trong nhận thức sau khi sự việc đã diễn ra, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc phát hiện những thiếu sót đó ngay từ đầu. Mọi ý tưởng sáng tạo đều có giá trị khi được nhìn nhận theo 'nhận thức sau'. Chúng ta có thể tính tổng các số từ 1 đến 100 trong vòng năm giây bằng một ý tưởng hoàn toàn logic trong quá trình nhận thức sau, nhưng để có được ý tưởng đó, cần phải có sự sáng tạo.
Có lẽ nguyên nhân chính khiến chúng ta chưa chú ý nhiều đến nhận thức là vì mãi mãi hai mươi năm trước chúng ta mới bắt đầu hiểu về cách nhận thức hoạt động. Chúng ta từng tin rằng, một cách hoàn toàn sai lầm, rằng quá trình nhận thức và quá trình xử lý đều hoạt động trong các hệ thống thông tin thụ động. Trong những hệ thống đó, thông tin và bề mặt ghi nhận thông tin đều mang tính thụ động và không tự vận hành được. Do đó, cần có một bộ xử lý bên ngoài để tổ chức, sắp xếp, di chuyển thông tin và rút ra ý nghĩa từ những thông tin đó.
Ngày nay, chúng ta tin rằng quá trình nhận thức diễn ra trong một hệ thống thông tin có khả năng tự tổ chức và được vận hành bởi các mạng lưới thần kinh trong não bộ. Nghĩa là thông tin cùng với bề mặt chứa thông tin sẽ tự vận hành, và thông tin tự sắp xếp thành các nhóm, chuỗi và mẫu mực. Quá trình này giống như mưa rơi xuống đất và tự tạo thành kênh rạch, sông suối. Những ai quan tâm đến các quá trình này có thể tìm đọc những cuốn sách sau đây: The Mechanism of Mind (tạm dịch: Cơ chế của tâm trí) và I Am Right - You Are Wrong (tạm dịch: Tôi Đúng - Bạn Sai).
Chúng ta nên hiểu sơ lược về các quá trình cơ bản nhất trong tư duy trước khi đi vào chi tiết từng giai đoạn. Các quá trình này xuất hiện ở mọi giai đoạn tư duy, nên sẽ rất hữu ích khi bạn có cái nhìn tổng quan về chúng. Dưới đây là các quá trình cơ bản mà chúng ta sẽ xem xét:
Khái quát/cụ thể
Phóng chiếu
Định hướng sự chú ý
Nhận dạng
Chuyển dịch
Khái quát
Quá trình đi từ chi tiết đến tổng quát thường được gọi là sự trừu tượng hóa – một thuật ngữ gây ra sự nhầm lẫn hơn là hữu ích. Khi nghiên cứu về quá trình tư duy, bạn sẽ thấy sự biến đổi thường xuyên từ cái cụ thể đến cái tổng quát rồi quay lại cái tổng quát. Trong tư duy, chúng ta luôn mong muốn có sự chính xác. Nhưng tư duy là lĩnh vực mà chúng ta được khuyến khích hướng tới sự tổng quát và mơ hồ. Tất nhiên, bạn phải “mơ hồ” theo đúng hướng. Nếu bạn đang tìm “cách nào đó để gần cái này lên tường” thì việc bạn nghĩ đến “cách nào đó để chiên trứng” sẽ không mang lại hiệu quả gì.
Quá trình phóng chiếu là một phần rất cơ bản của tư duy, bởi vì chúng ta không thể xem xét mọi thứ trong thế giới thực. Do đó, chúng ta phải “nhìn thấy những gì sẽ xảy ra” và xem xét các sự vật, sự việc trong tâm trí của chúng ta. Chúng ta có thể sai lầm và có thể không có được một hình ảnh rõ ràng, nhưng ít ra chúng ta có thể có được một vài dấu hiệu.
Mặc dù hầu hết mọi người đều khẳng định rằng họ sử dụng những chỉ dẫn nội tại để định hướng sự chú ý của mình, nhưng thực tế không phải như vậy. Ví dụ, trong một nhóm các chuyên gia có trình độ cao, một nửa trong số họ được yêu cầu đánh giá một đề xuất một cách khách quan, và nửa còn lại được yêu cầu sử dụng phương pháp chiếc nón màu vàng và màu đen để đánh giá các đề xuất đó. Những người thuộc nhóm sử dụng phương pháp chiếc nón đã đưa ra số lượng đánh giá nhiều gấp ba lần số lượng đánh giá của những người thuộc nhóm còn lại – những người khẳng định rằng luôn xem xét cả mặt lợi lẫn mặt hại của mọi tình huống.
Mặc dù hầu hết mọi người đều khẳng định rằng họ sử dụng những chỉ dẫn nội tại để định hướng sự chú ý của mình, nhưng thực tế không phải như vậy. Ví dụ, trong một nhóm các chuyên gia có trình độ cao, một nửa trong số họ được yêu cầu đánh giá một đề xuất một cách khách quan, và nửa còn lại được yêu cầu sử dụng phương pháp chiếc nón màu vàng và màu đen để đánh giá các đề xuất đó. Những người thuộc nhóm sử dụng phương pháp chiếc nón đã đưa ra số lượng đánh giá nhiều gấp ba lần số lượng đánh giá của những người thuộc nhóm còn lại – những người khẳng định rằng luôn xem xét cả mặt lợi lẫn mặt hại của mọi tình huống.
Mặc dù hầu hết mọi người đều khẳng định rằng họ sử dụng những chỉ dẫn nội tại để định hướng sự chú ý của mình, nhưng thực tế không phải như vậy. Ví dụ, trong một nhóm các chuyên gia có trình độ cao, một nửa trong số họ được yêu cầu đánh giá một đề xuất một cách khách quan, và nửa còn lại được yêu cầu sử dụng phương pháp chiếc nón màu vàng và màu đen để đánh giá các đề xuất đó. Những người thuộc nhóm sử dụng phương pháp chiếc nón đã đưa ra số lượng đánh giá nhiều gấp ba lần số lượng đánh giá của những người thuộc nhóm còn lại – những người khẳng định rằng luôn xem xét cả mặt lợi lẫn mặt hại của mọi tình huống.
Mặc dù hầu hết mọi người đều khẳng định rằng họ sử dụng những chỉ dẫn nội tại để định hướng sự chú ý của mình, nhưng thực tế không phải như vậy. Ví dụ, trong một nhóm các chuyên gia có trình độ cao, một nửa trong số họ được yêu cầu đánh giá một đề xuất một cách khách quan, và nửa còn lại được yêu cầu sử dụng phương pháp chiếc nón màu vàng và màu đen để đánh giá các đề xuất đó. Những người thuộc nhóm sử dụng phương pháp chiếc nón đã đưa ra số lượng đánh giá nhiều gấp ba lần số lượng đánh giá của những người thuộc nhóm còn lại – những người khẳng định rằng luôn xem xét cả mặt lợi lẫn mặt hại của mọi tình huống.
Trong một khía cạnh nào đó, mục đích của tư duy là để vượt lên trên chính nó. Có những người đã thành công trong việc này. Mục đích của tư duy là để tạo ra các mô hình thường thấy, giúp chúng ta nhìn nhận thế giới thông qua chúng và hướng dẫn chúng ta hành động. Khi đó, tư duy không còn cần thiết nữa. Một số người đã thành công trong việc này vì họ tin rằng các mô hình mà họ đã tạo ra là đủ cho cuộc đời của họ. Họ không có ý định thay đổi hoặc tiến bộ. Nhưng họ có thể cảm thấy hài lòng và thỏa mãn.
/Sự di chuyển và các lựa chọn thay thế/
Các quy trình tư duy cơ bản được đề cập ở trên sẽ quen thuộc với hầu hết những người theo trường phái tư duy truyền thống, nhưng sự di chuyển thì không.
'Sự di chuyển' đơn giản có nghĩa là “Từ điểm này, bạn di chuyển về phía trước như thế nào?'.
Trong hình thức cực đoan nhất, sự di chuyển được sử dụng cùng với sự kích thích để tạo thành một trong những kỹ thuật cơ bản của tư duy sáng tạo (ngoại vi).
Chúng ta có thể tưởng tượng sự di chuyển bằng cách hình dung một chiếc bánh xe hình vuông đang lăn (quá trình chiếu phát). Khi chiều cao của bánh xe tăng lên do góc vuông của bánh xe tiếp xúc với mặt đất, bộ giảm xóc của xe có thể điều chỉnh và rút ngắn để duy trì khoảng cách giữa sàn xe và mặt đất. Từ đó, chúng ta có ý tưởng về một bộ giảm xóc có khả năng phản ứng linh hoạt theo tình huống. Điều này dẫn chúng ta đến ý tưởng về một “bộ giảm xóc tự động' hoặc “bộ giảm xóc thông minh', một ý tưởng mà bây giờ chúng ta có thể nghiên cứu như một khả năng thực sự.
Sự di chuyển bao gồm mọi phương tiện từ một tuyên bố, vị trí hoặc ý tưởng. Sự di chuyển có thể liên quan đến việc kết nối. Chúng ta di chuyển từ một ý tưởng đến một mối liên kết.
Sự di chuyển có thể bao gồm quá trình suy nghĩ từ điều này sang điều khác hoặc suy nghĩ theo dạng thơ thẩn, quá trình mà trong đó các ý tưởng liên tục nảy sinh.
Sự di chuyển cũng bao gồm việc tạo ra các phương án thay thế. Nếu có một phương pháp làm việc hiệu quả, tại sao chúng ta cần phải tìm kiếm phương án thay thế? Không có lý do thích đáng nào, vì vậy chúng ta cần phải tự tạo ra các phương án thay thế tương đương. Điều này liên quan đến sự di chuyển: 'Còn cách nào khác để làm điều này không?'.
Giá trị của việc tìm kiếm nhiều phương án thay thế là rất rõ ràng. Cách đầu tiên không phải lúc nào cũng là cách tốt nhất. Có nhiều phương án thay thế sẽ giúp chúng ta so sánh, đánh giá và chọn ra cách tốt nhất.
'Sự di chuyển' có thể được định hướng bằng cách sử dụng một hướng dẫn hoặc yêu cầu tập trung. Chúng ta có thể tự hướng dẫn mình để tập trung vào “các thành viên khác trong cùng một lớp'.
Có những người cực kỳ thông minh và không mắc lỗi trong tư duy. Họ tin rằng chỉ cần có trí thông minh là đủ và tư duy không mắc lỗi là tư duy tốt. Có người từ bỏ việc tư duy. Họ không xuất sắc trong học tập và không thích giải đố. Vì thế, họ nghĩ rằng khả năng tư duy không phải là một thứ họ sở hữu. Họ hài lòng sống bằng cách tốt nhất với khả năng của mình.
Sự tự mãn là một cản trở đối với mọi tiến bộ. Sự chấp nhận cũng vậy. Nếu tin rằng bạn hoàn hảo, bạn sẽ không có động lực để cải thiện bản thân. Nếu bạn quyết định từ bỏ, bạn cũng sẽ không có ý định cố gắng thêm.
Cuốn sách này dành cho những người cảm thấy tư duy là một vấn đề phức tạp và rối ren, nhưng lại là một phần của cuộc sống hàng ngày. Họ muốn cải thiện khả năng tư duy của mình để làm cho nó trở nên đơn giản và hiệu quả hơn. Họ muốn tư duy trở thành một kỹ năng mà họ có thể áp dụng vào bất kỳ vấn đề nào họ chọn lựa.
Đánh giá bởi: Yến Linh - MyBook
Hình ảnh: Bảo Nhi - MyBook