
Chơi chữ, với người theo trường phái Nho, cần phải có những yếu tố mà người bình thường không thể đạt được đầy đủ: Có kiến thức đã đủ, nhưng lại phải có tài. Trong văn học của chúng ta, có nhiều cách chơi: thơ, phú, câu đối, “tập Kiều”, việc áp dụng phương pháp nào phụ thuộc vào tình hình, hoàn cảnh, cách tổ chức và nguồn cảm hứng của nhà văn. Khi thưởng trà, khi thú vị, nhà Nho gặp những tình huống hài hước, thường lựa chọn lời văn, ngụ ý về bản thân và cuộc sống.
Một trong những hình thức chơi chữ nổi tiếng nhất là nói lái. Có thể kể đến câu chuyện về Trạng Quỳnh dự vào lọ tương hai từ Đại Phong, mà ông giải thích một cách lác đồng rằng đại phong là gió to, gió to thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo, tượng lo là lọ tương. Những lời nói đùa của Trạng Quỳnh không hề mang ý xấu, còn có những lời nói lái còn độc độc hơn nhiều.
Một buổi trưa khác, một bà chủ phát hiện Quỳnh đang dùng chân vặn bèo trong một cái ao sen ven đường. Bà ngạc nhiên hỏi:
- Trạng làm gì đấy?
Quỳnh ngẩng lên thưa:
- Nắng cực quá, không ngủ được, tôi phải ra đây đá bèo chơi!
Bà chúa đỏ mặt bỏ đi.

Trong cuốn chơi chữ của cụ Lãng Nhân, có kể lại câu chuyện về một quan lớn đi kinh lý, dân làng làm mấy cổng chào có dán nhiều câu ca ngợi tài đức. Vốn là tay hay chữ, quan nhớ lại những câu đối, rất lấy làm bằng lòng, chỉ thắc mắc về hai chữ đại tự:
' Đại chí '
mà quan thấy viết trên bức hoành cổng chào cuối làng.
Đại chí có nghĩa là chí lớn, chí thế nào, chí làm gì, mới được chứ? Ai lại làm chữ cụt ngủn thế bao giờ! Hay là có ý đồ gì đây…
Đương mân mê điếu thuốc lào để suy tưởng, bỗng quan lớn vứt mồi thuốc xuống đất, miệng lẩm bẩm: “Láo thật, quân láo thật! Dám chơi lối Trạng Quỳnh với mình”.
Thì ra quan vừa chợt hiểu ra: Đại chí là chí to, chí to là chó ti, mà Ti lại là tên húy của ngài.
Một trong những câu chuyện khác về Trạng Quỳnh với lối nói lái là khi muốn xin chiếc bánh giầy của cô Tú, người tỉnh Tuyên Quang nên thổ lộ: “Tuyên Quang, Hoằng Hóa cũng thì vua/Nắng cực cho nên phải mất mùa/Lại đứng bên đường xin xỏ chị/Nỡ nào mà chị lại không cho”.
Ông Nam Chi nhận định rằng: “Từ sơ khai, nói lái đã phối hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố: kỹ thuật lái và cái tục. Yếu tố “tục” trong nói lái của cả ông Cống Quỳnh lẫn bà Hồ Xuân Hương đã gieo rắc một ảnh hưởng rất lớn và đến nay đã biến thành nét đặc trưng cố hữu của nói lái”. Ông cho rằng hiện tượng nói lái phát tích từ bắc Trung bộ đã theo bước chân nam tiến về phương Nam.
Hồ Xuân Hương, có rất nhiều bài thơ nói lái để ghẹo người khác. Nhà thơ Xuân Diệu đã gọi Hồ Xuân Hương là 'Bà chúa thơ Nôm' (1772-1822). Thơ của bà vừa thanh vừa tục nhất là thơ nói lái. Thơ của bà là tiếng nói của nữ quyền đả kích mạnh mẽ thói đời. Bà là người phụ nữ đầu tiên dám dùng thơ để châm biếm cả sư vãi:
Sư bị làng đuổi
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút chát chua chua
Thuyền từ cũng muốn về phía Tây Trúc
Trái gió thành ra phải lộn xộn!
Chùa Quán Sứ
Quán Sứ sao mà cảnh vắng tan teo
Hỏi thăm sư cụ đáo chỗ neo?
Chày kình tiểu để trống không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại mặc
Sáng banh không ai khua tang mít
Trưa trật nào người lấy kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lẻ loi
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đèo
Bùi Giáng thường sử dụng ngôn ngữ cà rỡn trào lộng của người dân Quảng Nam, đặc biệt là cách nói lái tinh quái của quê hương ông. Trong thơ, ông thường sử dụng nhiều từ trữ tình, thâm thúy:
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra (Mưa nguồn)
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều (Bờ trần gian)
Nói lái được coi là một nghệ thuật, không phải đơn giản. Nó giống như mạch nước ngầm chảy len lỏi mà bền bỉ trong đời sống hằng ngày, giúp người ta sống vui vẻ hơn, lạc quan hơn. Câu nói lái đúng với hoàn cảnh sẽ trở nên thú vị và đậm đà hơn