Đề bài: 'Nguyễn Khuyến và Tú Xương có niềm tâm sự tương đồng, nhưng giọng thơ tạo nên sự độc đáo'. Hãy làm sáng tỏ quan điểm trên.
I. Cấu trúc chi tiết
1. Giới thiệu
2. Phân tích chính
3. Kết luận
II. Mẫu văn bản
I. Kế hoạch chi tiết
1. Mở đầu
- Tổng quan về hai văn sĩ nổi tiếng Nguyễn Khuyến và Tú Xương.
- Đặt vấn đề: 'Niềm tâm sự chung nhưng giọng thơ khác nhau giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương'.
2. Nội dung chính
a. Đồng điệu tâm trạng giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương
- Tận hưởng sự chân thực, sâu sắc khi vạch trần bộ mặt của quan chức thời đại
- Thấu hiểu thái độ chua chát, sắc mỉa mai trước bức tranh đau lòng của xã hội và trường thi.
b. Dấu ấn thơ khác biệt giữa hai danh hài văn chương
- Nguyễn Khuyến: Mỉa mai nhẹ nhàng, sự sâu sắc lẫn trong từ ngữ và ý nghĩa ẩn sau những hình thức ẩn dụ
- Tú Xương: Làm nổi bật ngòi bút châm biếm, lột tả triệt để cái xấu, giả dối, với độ sâu và độc đáo khiến lòng độc giả cay đắng.
c. Lý do Sự Đồng và Khác biệt
- Điểm tương đồng: Cả hai nhà thơ sống trong bối cảnh đầy thách thức và những khía cạnh đau lòng của xã hội.
- Điểm khác biệt:
+ Đặc trưng văn học riêng
+ Tính cách độc đáo của từng nhà thơ:
- Nguyễn Khuyến có sự thuận lợi trong hành trình học vấn, thi cử
- Tú Xương, mặc dù tài năng xuất chúng, nhưng con đường học thuật của ông đầy gian nan và không thuận lợi
+ Bối cảnh cuộc sống:
- Nguyễn Khuyến, từ lúc còn nhỏ, đã trải qua tuổi thơ trong làng quê
- Trái ngược hoàn toàn, Tú Xương, ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh thành thị
3. Đặc điểm sáng tác
Tổng kết vấn đề nghị luận và phản ánh quan điểm cá nhân về nét độc đáo trong sáng tác của hai nhà thơ nổi tiếng.
II. Mẫu văn
Nguyễn Khuyến và Tú Xương, hai nhà thơ tài năng của văn hóa trung đại Việt Nam, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả qua những tác phẩm nổi tiếng. Một quan điểm đặt ra là 'Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ lại có điểm khác nhau'. Khám phá sâu hơn về sáng tác của họ, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về quan điểm này.
Trong những tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương, điểm chung là nỗi niềm tâm sự với quê hương, đất nước, và dân tộc. Cả hai đều mỉa mai, châm biếm, và tố cáo những tật xấu của xã hội. Nguyễn Khuyến lôi kéo bức tranh quan chức bằng bài thơ 'Lời vợ anh phường chèo':
Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nọ khác chi thằng hề.
Tú Xương cũng vẽ lên bức tranh tương tự với bài thơ 'Hát tuồng', nhấn mạnh sự giả dối của quan lại, đeo mặt nạ để lừa dối nhân dân.
Không gì đổi thay, bọn tuồng
Hò hét, kêu la, yên uông
Trái tim đánh lừa đàn em trẻ
Mặt phố bôi trắng, suy tư buồn.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều thể hiện sự châm biếm đối với trường thi và làm bật nhược điểm của những nhà giáo tri thức trong xã hội thời kỳ đó. Trong bài thơ 'Tiến sĩ giấy' của Nguyễn Khuyến, ông nêu rõ thái độ chua chát, mỉa mai trước cảnh chạy theo danh vị quan chức, khiến cho danh vị chỉ còn như là bề ngoài.
Cờ biển, cân đai, gọi ông
Nghè mà ông kém, đủ lòng nhi.
Giấy làm thân, văn khôi mặt,
Nét son điểm lên giả tạo ngay.
Xiêm áo giữ thân trở nên nhẹ,
Giá trị khoa danh thật thơm mới.
Ghế chéo, xanh lọng, bảnh chọe
Thường lầm là đồ chơi giả tạo.
Tú Xương chọn con đường trực tiếp đả kích và châm biếm trong bài thơ 'Vịnh khoa thi Hương', lột tả sự nhố nhăng và vô nghĩa của trường thi thời đó.
Ba năm trôi qua, Nhà nước mở rộng một khoa mới
Trường Nam đua đòi với trường Hà.Lôi, sĩ tử đeo lọ vai
Ững oẹ người trẻ hô loa đầy hứng khởi.
Cờ tung bay, quan sứ đến thăm
Đám đông náo nức, đất nước hân hoan chào đón.
Nhân tài nảy mình, nổi bật ở Bắc đâu rồi?
Ngoảnh đầu nhìn, đất nước huyền bí đẹp lạ lùng!
Thêm vào đó, trong những tác phẩm của họ, cả hai nghệ sĩ đều phản ánh những tình tiết khó khăn, những trải nghiệm đau lòng, và những bóng tối của xã hội đang ngày càng nhiều. Đối với Nguyễn Khuyến, hình ảnh đặc trưng là 'Hội Tây' với những người dân đương đầu với thực tế khó khăn, đối mặt với thế giới để tham gia vào hội Tây.
Dựa vào sức mạnh của cây đu đủ, nhiều chị em nhún nhảy
Tam tiền và cột mỡ là niềm vui, người ta leo lên không ngừng
Khen ngợi tài năng vẽ nên những trò vui tươi sáng
Vui sướng đến đâu, nhục cũng tới đó.
Với Tú Xương, điều quan trọng nhất là làm thay đổi những giá trị đạo đức, những phẩm chất truyền thống của quê hương:
Nhà ấy phạm lỗi, con cái khinh bố
Bà kia chua cay, vợ mắng chồng.
(Tại xứ Hoàng)
Trong sáng tác, Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều thể hiện mỉa mai, châm biếm, và lố bịch của xã hội và tầng lớp quan chức. Mỗi ông đều có giọng thơ độc đáo, từng chi tiết hình dung sâu sắc nét, tạo nên những tác phẩm đặc sắc. Khám phá thơ của Nguyễn Khuyến, người đọc sẽ gặp một giọng thơ mỉa mai nhẹ nhàng nhưng sắc bén, đầy hàm ý. Ông thường sử dụng ẩn dụ khéo léo, mượn lời người vợ hay đồ vật giả để thể hiện ý nghĩa sâu sắc. Ngược lại, Tú Xương không thèm ẩn dụ, luôn tập trung phê phán trực tiếp, lột tả tất cả xấu xa, giả dối. Với Tú Xương, mỉa mai phải đậm chất độc đáo, sâu cay, và rõ ràng. Ông tái hiện cảnh trường và xã hội một cách chi tiết, sống động, không che dấu đi những điều tiêu cực.
Cả Tú Xương và Nguyễn Khuyến chia sẻ nỗi lòng và tâm sự nhưng bản thân họ lại có giọng thơ và cách diễn đạt khác biệt. Điều này xuất phát từ đặc trưng văn hóa và con người riêng biệt. Nguyễn Khuyến, với lối sống thuận lợi trong học vấn, chọn lựa những ẩn dụ tinh tế, tạo ra giọng thơ nhẹ nhàng, sâu sắc. Tú Xương, ngược lại, trải qua những thách thức và biến động trong cuộc sống thành thị, hình thành một giọng thơ trực tiếp, châm biếm. Sự khác biệt cũng đến từ hoàn cảnh sống - Nguyễn Khuyến từ nông thôn yên bình, Tú Xương lớn lên trong môi trường thành thị năng động, làm nên sự đa dạng và độc đáo của giọng thơ của họ.
Tổng kết lại, Nguyễn Khuyến và Tú Xương chia sẻ những nỗi lòng và tâm sự tương đồng, nhưng giọng thơ của họ lại mang đến những trải nghiệm khác nhau. Điều này làm phong phú thêm vườn hoa văn học trung đại với đủ loại hương thơm.
Trong bối cảnh bài 'Những đám mây và ánh sáng trên bề mặt trăng: Một tìm hiểu sâu sắc về vũ trụ', học sinh có thể khám phá những tác phẩm văn học độc đáo như: Phân tích thơ Hòa Thượng Tâm Không, Hành trình khám phá vũ trụ trong Đám mây và ánh sáng trên trăng, Bình luận về ý nghĩa văn hóa của ánh sáng trăng.