
Thánh Anna | |
---|---|
Linh ảnh Hy Lạp Thánh Anna và Đức Mẹ (Saint Anne and Mary) của Angelos Akotantos | |
Mẹ của Maria, Trinh nữ, Người phụ nữ Amram | |
Sinh | Khoảng năm 50 TCN Bethlehem |
Mất | Năm 12 (khoảng 62 tuổi) không xác định |
Tôn kính | Kitô giáo |
Tuyên thánh | Trước giáo đoàn (Pre-Congregation) |
Lễ kính | 26 Tháng 7 (Giáo hội Công giáo Rôma), 25 tháng 7 (Chính thống giáo Đông phương |
Biểu trưng | Sách, cánh cửa, bên cạnh Mary, Jesus hoặc Gioakim |
Quan thầy của | Brittany, Canada, Detroit, Fasnia (Tenerife, Tây Ban Nha); Mainar; thợ mộc; chăm sóc trẻ em; người hiếm muộn; trẻ em; người cưỡi ngựa, làm việc ở chuồng ngựa; ông bà; người nội trợ; người làm đăng ten; bài viết thất lạc; thợ mỏ; người mẹ; chuyển nhà; người bán quần áo cũ; sự nghèo nàn; sự mang thai; thợ may; bệnh vô sinh; giáo viên |
Anna, xuất thân từ dòng dõi vua David, là mẹ của Maria và bà ngoại của Chúa Giêsu theo các tài liệu Kitô giáo và Hồi giáo cổ truyền. Mặc dù mẹ của Maria không được đề cập trong các sách phúc âm chính thống, bà được nhắc đến như là con gái của Faqud trong kinh Koran. Tên của Anna và chồng bà, Gioakim, chỉ được nhắc đến trong các sách Tân Ước không chính thức, trong đó ngụy thư Giacôbê (có thể viết vào khoảng năm 150) là tài liệu đầu tiên nói về họ.
Giáo hội cổ điển
Câu chuyện của Anna tương tự như sự ra đời của Samuel, với mẹ là Hannah (tiếng Hebrew: חַנָּה Ḥannāh 'ân huệ, ân sủng'; từ nguyên giống như Anna), một phụ nữ hiếm muộn. Mặc dù Anna nhận được ít sự chú ý trong Giáo hội Latinh trước thế kỷ 12, sự thờ phụng bà trong Kitô giáo Đông phương đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 6. Trong Chính thống giáo Đông phương và Công giáo Đông phương, bà được vinh danh như Hannah. Trong truyền thống Chính thống giáo, Hannah được gán danh hiệu Forebear of God (tạm dịch: Tổ tiên của Thiên Chúa), với lễ sinh nhật của Maria và lễ Đức Mẹ dâng mình là hai trong số mười hai Lễ lớn của Chính thống giáo Đông phương. Phái Kháng Cách, tổ chức mà Martin Luther gia nhập để sống đời tu sĩ Augustine sau khi cầu xin Thánh Anna trong lúc gặp nguy hiểm bởi sấm sét.
Trong truyền thống Hồi giáo
Anna (Tiếng Ả Rập: حنة Ḥannah) cũng được tôn thờ trong Hồi giáo như một người phụ nữ thiêng liêng và là mẹ của Maria. Kinh Koran ghi nhận cô là con gái của Faqud, người đã già mà không có con. Một ngày, khi ngồi dưới bóng mát của một cây, Hannah thấy một con chim đang chăm sóc tổ chim, điều này đã khơi dậy trong cô khát khao có con. Cô cầu nguyện và cuối cùng mang thai; chồng cô, Imran, qua đời trước khi đứa trẻ ra đời. Cô mong đợi một con trai và đã thề sẽ dâng cậu cho phục vụ trong đền thờ.
Tuy nhiên, Hannah sinh một cô con gái, đặt tên là Maria. Lời của Hannah khi sinh Maria phản ánh một điều huyền bí, cho thấy rằng mặc dù cô mong muốn một đứa con trai, nhưng cô con gái này lại là món quà của Thiên Chúa dành cho cô:
Nhưng khi nàng sinh ra, nàng nói: 'Lạy Chúa, tôi đã sinh ra một bé gái - nhưng Ngài biết rõ hơn ai hết về chuyện này; đứa con trai mà tôi mong ước không giống như đứa con gái mà tôi đã sinh - tôi đã đặt tên cho nó là Maria. Tôi cầu xin Ngài ban phước cho nó và con cháu của nó để không bị quỷ Sa-tăng quấy rối.' Qur'an 3:37
Niềm tin

Dù các sách Tân Ước chính thống không nhắc đến mẹ của Maria, nhưng truyền thống về gia đình Maria, thời thơ ấu, giáo dục, và lễ đính hôn với Giuse đã phát triển từ rất sớm trong lịch sử Giáo hội. Nguyên bản lâu đời và có ảnh hưởng nhất về những chủ đề này là ngụy thư Giacôbê, được viết bằng tiếng Hy Lạp vào giữa thế kỷ thứ hai. Ở phương Tây, ngụy thư Giacôbê bị nghi ngờ trong thế kỷ thứ 4 và 5, khi Giêrônimô chỉ trích là 'vô lý' và bị Giáo hoàng Đamasô I, Giáo hoàng Innôcentê I, và Giáo hoàng Gêlasiô I lên án là không đáng tin cậy.
Niềm tin cổ xưa, được chứng thực bởi bài giảng của Gioan thành Damascus, cho rằng Anne đã từng kết hôn một lần. Đến cuối thời Trung cổ, một huyền thoại mới cho rằng Anna đã kết hôn ba lần: đầu tiên với Gioakim, sau đó với Clopas, và cuối cùng với Solomas, mỗi cuộc hôn nhân đều sinh ra một cô con gái: Maria, mẹ của Chúa Giêsu, Maria Clopas, và Maria Salomæ, theo thứ tự. Em gái của Anna, Sobe, là mẹ của Elizabeth và bà ngoại của Gioan Baotixita.
Tương tự, vào thế kỷ thứ 4 và tiếp tục đến thế kỷ 15, một niềm tin xuất hiện rằng Anna sinh ra Maria bằng cách sinh trinh nữ, giữ gìn cơ thể và linh hồn của Anna nguyên vẹn, khác với học thuyết thụ thai tinh khiết, giữ gìn cơ thể và linh hồn của Maria từ khi mới hình thành. Trong thế kỷ 16, các tín đồ như nhà thần bí Giáo hội Luther Valentin Weigel tuyên bố rằng Anna hình thành Maria bởi sức mạnh của Thánh linh, không phải qua quan hệ vợ chồng. Niềm tin này bị Giáo hội Công giáo bác bỏ vào năm 1677. Vào thế kỷ 15, giáo sĩ Công giáo Johann Eck trong một bài giảng đã nêu tên cha mẹ của Thánh Anna là Stollanus và Emerentia. Bách khoa toàn thư Công giáo (Catholic Encyclopedia, 1907) coi phả hệ này là giả mạo.
Sự tôn kính

Trong Giáo hội Đông phương, việc tôn thờ Thánh Anna bắt đầu vào khoảng năm 550, khi Justinian xây dựng một nhà thờ ở Constantinople để vinh danh bà. Dấu hiệu sớm nhất của sự tôn kính Thánh Anna ở phương Tây là một bức bích họa thế kỷ 8 tại nhà thờ Santa Maria Antiqua, Rome.
Virginia Nixon nhận thấy lợi ích kinh tế trong việc quảng bá địa phương qua sự thờ phụng Thánh Anna để thu hút các tín đồ hành hương. Việc xác định Sepphoris là nơi sinh của Maria được xem như một đối thủ cạnh tranh với một địa điểm tương tự ở Jerusalem. Một ngôi đền ở Douai, miền bắc nước Pháp, là một trong những trung tâm đầu tiên của lòng sùng mộ Thánh Anna tại phương Tây.
Hai ngôi đền nổi tiếng tôn thờ Thánh Anna là Sainte-Anne-d'Auray ở Brittany, Pháp, và Sainte-Anne de Beaupré gần thành phố Québec, Canada. Lượng khách đến thăm nhà thờ St. Anne de Beaupré đạt cao điểm vào Lễ kính Thánh Anna ngày 26 tháng 7 và chủ nhật trước Lễ sinh nhật của Đức Mẹ Maria ngày 8 tháng 9. Vào năm 1892, Giáo hoàng Leo XIII đã gửi một di tích của Thánh Anna đến nhà thờ này.
Trong tiếng Malta, thiên hà được gọi là It-Triq ta' Sant' Anna, có nghĩa là 'Con đường của Thánh Anna'.
Tại Đế quốc Nga, Huân chương Thánh Anna là một trong những huân chương danh giá nhất của nhà nước.
Di tích thánh
Di tích được cho là của Thánh Anna đã được chuyển từ Đất Thánh đến Constantinople vào năm 710 và được lưu giữ tại Nhà thờ Thánh Sophia vào cuối năm 1333. Trong thế kỷ 12 và 13, những hiệp sĩ thập tự chinh và khách hành hương từ phương Đông đã mang di tích của Thánh Anna đến nhiều nhà thờ, bao gồm những địa điểm nổi tiếng như Apt, Provence, Ghent và Chartres. Các di vật của Thánh Anna vẫn được tôn kính và bảo quản trong nhiều nhà thờ và tu viện mang tên bà, chẳng hạn như ở Áo, Canada, Đức, Ý và Hy Lạp tại núi Athos và thành phố Katerini.
Từ năm 1506, Düren, Đức đã trở thành trung tâm hành hương chính của những tín đồ sùng mộ Thánh Anna, sau khi Giáo hoàng Giuliô II quyết định rằng di tích của thánh nhân nên được bảo quản tại đây.
Ghi chú
Liên kết ngoài
- Kinh Koran bản Tiếng Việt [1]
- Bài viết ngắn của American Catholic về 'Thánh Gioakim và Anna' Lưu trữ 2009-05-02 tại Wayback Machine
- Anna, Bà Ngoại của Chúa Giêsu của Claire Heartsong Lưu trữ 2012-03-26 tại Wayback Machine
- 'Thánh Anna' trên trang web Christian Iconography
- 'Here Followeth the Nativity of Our Blessed Lady' từ bản dịch của Caxton về Golden Legend
- Protevangelium của Giacôbê
- Tin Mừng của Pseudo-Matthew
- Reames, Sherry L. ed.,'Huyền thoại về Thánh Anna, Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria: Giới thiệu', Middle English Legends of Women Saints, Medieval Institute Publications, Kalamazoo, Michigan, 2003
- Welsh, Jennifer. Thờ Phượng Thánh Anna trong Thế Kỷ Trung Cổ và Đầu Thế Kỷ Hiện Đại. Routledge, 2017.