Trong lịch sử văn hóa dân tộc, bức tranh sơn ca của Nguyễn Trãi - “Bình Ngô đại cáo” - được coi là tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đây là áng văn trần đầy tự hào dân tộc. Chỉ cần đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Trong Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 tập 2) là đã thấy rõ điều đó.
“Bình Ngô đại cáo” được tạo ra sau khi Lê Lợi cùng đồng minh Lam Sơn đánh bại quân Minh xâm lược. Bức tranh sơn ca này khảng định chiến thắng của dân tộc, khẳng định quyền tự chủ độc lập của nước nhà và góp phần thức giẩn ý thức của quân Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.
Văn bản “Nước Đại Việt ta” là phần mở đầu của bức tranh sơn ca. Mặc dù ngắn gọn nhưng đoạn trích này nêu lên các tiền đề cơ bản, nổi bật các quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với toàn bộ nội dung của bức tranh. Những tiền đề đó là chân lý về nhân nghĩa và chân lý về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Bằng lời văn đầy nhân nghĩa, văn bản bắt đầu:
“Tâm hồn nhân nghĩa là nơi yên bình của dân chúng
Phê bình trước đòi hỏi loại bỏ sự bạo lực
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên bình dân chúng”, “loại bỏ bạo lực”. Yên bình dân chúng làm cho mọi người được sống trong hòa bình và hạnh phúc. Để đạt được yên bình dân chúng, trước tiên phải loại bỏ những kẻ tàn bạo. Những người dân mà tác giả nhắc đến ở đây là những người dân của Đại Việt, phải chịu đựng những đau khổ dưới thời kỳ bạo ngược của giặc Minh. Do đó, khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tình yêu nước và quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo lực mà tác giả nhắc đến không ai khác, chính là quân Minh cùng bè lũ xâm lược.
Đoạn văn tiếp theo đầy tự hào:
“Như nước Đại Việt đã từ lâu”
Vẫn tồn tại truyền thống văn hóa từ lâu
Núi sông và biên giới đã phân chia
Phong tục ở Bắc và Nam có sự khác biệt
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần qua nhiều thời kỳ đã xây dựng nền độc lập
Cùng với triều đại Hán, Đường, và Tống, mỗi bên đều tự xưng là đế quốc một phương
Dù sức mạnh yếu đều thay đổi theo thời gian
Trong mọi thời đại đều có những anh hùng kiệt xuất
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến từ lâu, biên giới lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, và chế độ riêng. Với những yếu tố cơ bản này, tác giả đã trình bày một cách hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi nằm ở việc kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và thực tiễn. Điều đó được chứng minh rõ ràng! Anh hùng Nguyễn Trãi tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt. Và thực tế, chúng ta thật sự tự hào về điều đó:
Núi sông và biên giới đã tạo nên sự phân chia
Phong tục ở Bắc và Nam cũng có sự khác biệt
Dân tộc ta có chủ quyền, có bản sắc văn hóa riêng tạo ra sự khác biệt giữa hai phương Bắc và Nam. Chúng ta có nền độc lập vững chắc được hình thành từ những trang sử lịch sử vĩ đại. Anh hùng Hùng Vương và các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc, cùng với Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, suốt hàng ngàn năm qua:
Dù sức mạnh yếu có thay đổi theo thời gian
Trong mọi thời đại đều có anh hùng kiệt xuất
So với ý thức về quốc gia và dân tộc trong bài thơ “Sông núi nước Nam”, bài văn này của Nguyễn Trãi không chỉ kế thừa mà còn phát triển và hoàn thiện. Ý thức về độc lập dân tộc trong bài Sông núi nước Nam được nhấn mạnh về lãnh thổ và chủ quyền, trong khi trong bài “Nước Đại Việt ta”, ý thức dân tộc được mở rộng và bổ sung thêm với các yếu tố như nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán riêng, và truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc vào thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc và toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều từ ngữ thể hiện tính chất lâu đời của văn hóa Việt Nam. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,... được kết hợp với biện pháp so sánh và liệt kê, tạo ra một hiệu quả cao trong lập luận. Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp giúp làm nổi bật nội dung và chắc chắn hơn trong lập luận của tác giả.
Với vai trò là phần văn bản mở đầu của bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước và tình thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời, đoạn trích còn thể hiện vị thế của dân tộc trên nhiều phương diện, thể hiện lòng tự hào vô biên của tác giả.